✨Salmon (lớp tàu ngầm)

Salmon (lớp tàu ngầm)

Lớp tàu ngầm _Salmon_ bao gồm sáu tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối thập niên 1930. Chúng là một bước phát triển quan trọng trong khái niệm thiết kế "tàu ngầm hạm đội" trong giai đoạn trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, có nhiều cải tiến so với lớp Porpoise dẫn trước, và lần đầu tiên đạt được tốc độ với một hệ thống động lực tin cậy, cho phép chúng hoạt động phối hợp với các thiết giáp hạm tiêu chuẩn trong đội hình hạm đội. Ngoài ra, tầm hoạt động mà không cần tiếp thêm nhiên liệu cho phép chúng tuần tra đến tận vùng biển nhà Nhật Bản. Lớp Salmon và lớp tiếp nối trở thành những tàu chiến chắc chắn và tin cậy trong Thế Chiến II. Trong một số nguồn, các lớp SalmonSargo còn được gọi là "Lớp S mới" nhóm thứ nhất và nhóm thứ hai, tương ứng.

Thiết kế

Lịch sử

Được chấp thuận chế tạo trong năm tàu chính 1936 theo Đạo luật Vinson-Trammell, hai thiết kế riêng biệt nhưng tương tự nhau được phát triển và do ba xưởng đóng tàu khác nhau chế tạo. Electric Boat Company tại Groton, Connecticut thiết kế và chế tạo , và (SS-182 đến 184); Xưởng hải quân Portsmouth tại Kittery, Maine đề xuất một thiết kế vốn trở thành và (SS-185 & 186). Sử dụng đề án của Portsmouth, Xưởng hải quân Mare Island tại Vallejo, California chế tạo chiếc .

Hai thiết kế có những chi tiết khác biệt nhỏ về vị trí nắp hầm phòng động cơ phía trước, phòng nghỉ của thủy thủ, kiểu dáng của tháp chỉ huy, và đáng kể nhất là nắp đậy van nạp hơi chính. Sự khác biệt này đã đưa đến thương vong trên các chiếc SnapperSturgeon và việc chiếc Squalus bị đắm khi lặn thử máy. Lớn hơn đáng kể so với lớp Porpoise, tháp chỉ huy do Electric Boat thiết kế có hai đầu hình cầu lồi, trong khi thiết kế của Portsmouth có hỉnh cầu lồi phía sau và lỏm phía trước. Portsmouth và Mare Island gặp khó khăn khi chế tạo tháp chỉ huy, do xuất hiện vết nứt khiến vỏ tàu không đạt thử nghiệm về áp lực. Vấn đề sau cùng cũng được giải quyết, nhưng kinh nghiệm này khiến các xưởng tàu hải quân áp dụng thiết kế hai đầu lồi trong suốt nhiều năm tiếp theo.

Đặc tính chung

Hình dạng bên ngoài giữa hai thiết kế chỉ có những khác biệt nhỏ về dạng mép trên phía sau tháp chỉ huy; thiết kế của Electric Boat vuốt thấp dần về phía sau, trong khi thiết kế của xưởng tàu hải quân cao hơn và thẳng hơn. Ngoài ra, ba chiếc do Electric Boat đóng lúc hạ thủy có hai kính tiềm vọng dài , yêu cầu một bệ đỡ kính tiềm vọng nhỏ hơn trên tháp chỉ huy; ba chiếc do các xưởng tàu hải quân đóng trang bị một kính tiềm vọng 34 ft và một dài , đòi hỏi một bệ đỡ và lan can cao hơn.

Hệ thống động lực

Hai kiểu động cơ diesel chính khác nhau được trang bị trong quá trình chế tạo. Những chiếc đóng tại các xưởng tàu hải quân được trang bị kiểu động cơ mới GM-Winton 16-248 V16. Việc tiếp tục phát triển của GM-Winton đã khắc phục những vấn đề ban đầu, và kiểu động cơ này được xem là tin cậy và chắn chắn. Ba chiếc đóng bởi Electric Boat được trang bị một phiên bản 9 xy lanh của động cơ Hooven-Owens-Rentschler (H.O.R.) với xy lanh hoạt động hai chiều. Thiết kế này dựa trên một thiết kế động cơ hơi nước rất thành công, cung cấp lực đẩy trên cả hai chiều chuyển động của piston, hứa hẹn sẽ tăng gấp đôi công suất trên cùng kích cỡ một động cơ thẳng hàng hay bố trí chữ V. Không may là H.O.R. gặp phải rắc rối lớn trong thiết kế và chế tạo khi áp dụng khái niệm này trên động cơ đốt trong; chúng bị rung động rất lớn do mất cân bằng các buồng đốt, nhanh chóng làm hỏng các chi tiết động cơ. Miễn cưỡng không muốn từ bỏ một khái niệm đầy hứa hẹn, Hải quân tiếp tục sử dụng loại động cơ này trong lúc chờ đợi H.O.R. cải tiến để khắc phục vấn đề. Mãi đến khi chiến tranh tại Thái Bình Dương nổ ra, ngân sách đủ cung cấp và nhu cầu hoạt động đã khiến loại động cơ này được thay thế bằng kiểu GM-Winton 16-278A khi các con tàu được đại tu lần đầu tiên trong chiến tranh.

Những chiếc trong lớp

Lịch sử hoạt động

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu ngầm _Salmon**_ bao gồm sáu tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối thập niên 1930. Chúng là một bước phát triển quan trọng trong khái niệm thiết kế
**Lớp tàu ngầm _Sargo**_ bao gồm mười tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là những tàu ngầm Hoa Kỳ đầu
**_U-36_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
**USS _Salmon_ (SS-182)** là một tàu ngầm, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu mang tên nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào nữa sau thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm
**_Nürnberg_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đức thuộc lớp _Leipzig_ vốn còn bao gồm tàu tuần dương _Leipzig_. Được đặt tên theo thành phố Nuremberg, nó đã hoạt động trong
**_Leipzig_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn còn bao gồm tàu tuần dương _Nürnberg_, và là chiếc tàu chiến thứ tư
**USS _Trigger_ (SS-237)** là một tàu ngầm lớp _Gato_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa
**USS _Tang_ (SS-306)** là một tàu ngầm lớp Balao của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ hai, là con tàu đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo
**USS _Sturgeon_ (SS-187)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào nữa sau thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này,
**USS _Sterlet_ (SS-392)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên
**USS _Skipjack_ (SS-184)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào nữa sau thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này,
**USS _Snapper_ (SS-185)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào nữa sau thập niên 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba và là tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa
**USS _Stingray_ (SS-186)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào nữa sau thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này,
**USS _Seal_ (SS-183)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào nữa sau thập niên 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này,
**Silent Hunter 4: Wolves of the Pacific** (tạm dịch: _Thợ săn thầm lặng: Những con sói Thái Bình Dương_) là một trò chơi điện tử mô phỏng điều khiển tàu ngầm dành cho hệ điều
**USS _Wallace L. Lind_ (DD-703)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**_Asahi_** (tiếng Nhật: 朝日) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Được chế tạo cùng lúc với lớp thiết giáp hạm _Shikishima_ vào đầu thế kỷ 20,
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
**Chiến dịch Philippines (1941–1942)** (tiếng Philippines: Kampanya sa Pilipinas, tiếng Tây Ban Nha: Campaña en las Filipinas del Ejercito Japonés, tiếng Nhật: フィリピンの戦い, tiếng Lating: Firipin no Tatakai), hay còn được biết đến với tên
**Thaddeus Stevens** (4 tháng 4 năm 179211 tháng 8 năm 1868) là một dân biểu trong Hạ viện Hoa Kỳ đến từ Pennsylvania. Ông từng là một trong những lãnh tụ phái Cộng hòa Cấp
**Đảo Phục Sinh** ( ; ) là một đảo và lãnh thổ đặc biệt của Chile nằm ở phần đông nam Thái Bình Dương, tại điểm cực đông nam của Tam giác Polynesia thuộc châu
**_Mortal Engines_** là một bộ phim hậu tận thế năm 2018 của đạo diễn Christian Rivers với kịch bản của Fran Walsh, Philippa Boyens, và Peter Jackson, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Philip