✨USS Sturgeon (SS-187)
USS Sturgeon (SS-187) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào nữa sau thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá tầm. Ngoài ra, tầm hoạt động mà không cần tiếp thêm nhiên liệu cho phép chúng tuần tra đến tận vùng biển nhà Nhật Bản. Hệ thống động lực "tổng hợp" bao gồm bốn động cơ diesel, gồm hai chiếc vận hành trực tiếp trục chân vịt và hai chiếc để chạy máy phát điện dùng cho nạp ắc quy hay tăng tốc trên mặt nước. Lườn tàu có cấu trúc vỏ kép một phần với hai đầu là vỏ đơn, vốn là một phiên bản hoàn thiện hơn của chiếc và áp dụng thành công trên lớp Porpoise Kiển P-3 và P-5, kỹ thuật hàn đã được các xưởng tàu áp dụng rộng rãi cho toàn bộ cấu trúc con tàu.
Sturgeon có chiều dài , với trọng lượng choán nước khi nổi là và khi lặn là . Vũ khí trang bị chính được tăng lên tám ống phóng ngư lôi , gồm bốn ống trước mũi và bốn ống phía đuôi, và được bổ sung máy tính dữ liệu ngư lôi để chúng hiệu quả hơn. Con tàu còn có một hải pháo 3 inch/50 caliber trên boong tàu và bốn súng máy M1919 Browning .30-caliber (7,62 mm).
Sturgeon được đặt lườn tại Xưởng hải quân Mare Island ở Vallejo, California vào ngày 27 tháng 10, 1936. Nó được hạ thủy vào ngày 15 tháng 3, 1938, được đỡ đầu bởi bà Alice N. Freeman, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 25 tháng 6, 1938 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân A. D. Barnes.
Lịch sử hoạt động
1938–1941
Lên đường vào ngày 15 tháng 10, 1938 cho chuyến đi chạy thử máy huấn luyện, Sturgeon đã viếng thăm các cảng Mexico, Honduras, Panama, Peru, Ecuador và Costa Rica trước khi quay trở về San Diego, California vào ngày 12 tháng 12. Nó được phân về Hải đội Tàu ngầm 6 và hoạt động dọc theo vùng bờ Tây kéo dài cho đến Washington, và cùng với Hạm đội Thái Bình Dương thực hiện hai chuyến đi sang vùng biển quần đảo Hawaii từ ngày 1 tháng 7 đến ngày 16 tháng 8, 1939 và từ ngày 1 tháng 4 đến ngày 12 tháng 7, 1940. Nó khởi hành từ San Diego vào ngày 5 tháng 11, 1940 để chuyển đến hoạt động tại căn cứ Trân Châu Cảng, rồi lên đường vào ngày 10 tháng 11, 1941 do được điều động sang tăng cường cho Lực lượng Tàu ngầm trực thuộc Hạm đội Á Châu, đi đến vịnh Manila, Philippines vào ngày 22 tháng 11. Tại đây nó được phân về Đội tàu ngầm 22 thuộc Hải đội Tàu ngầm 2, và đang neo đậu tại căn cứ Mariveles ở cực Nam bán đảo Bataan khi Hải quân Đế Quốc Nhật Bản bất ngờ tấn công căn cứ Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 khiến chiến tranh bùng nổ tại Mặt trận Thái Bình Dương. Tiếp tục chuyến tuần tra, vào ngày 5 tháng 7, Sturgeon bắt gặp một đoàn tàu đang từ Manila hướng lên phía Bắc, và đã phóng ngư lôi đánh trúng và gây hư hại cho tàu chở dầu San Pedro Maru (7.268 tấn) về phía Nam Palauig, Luzon. Nó kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về Fremantle vào ngày 22 tháng 7. Chiếc tàu ngầm bị tàu khu trục Hatsuzuki phản công suốt buổi chiều tối hôm đó, và chỉ có thể rời khu vực lúc 18 giờ 55 phút. Đến ngày 24 tháng 1, nó lại tung ra hai lượt tấn công nhắm vào một đoàn bốn tàu buôn; lượt thứ nhất gây hư hại cho một tàu buôn; và lượt thứ hai đã đánh chìm tàu buôn Chosen Maru (3.110 tấn) ngoài khơi eo biển Bungo, tại tọa độ . Hoạt động này đã có ảnh hưởng lớn đến cuộc chiến tại Okinawa sau này, vì Toyama Maru đang vận chuyển 5.600 binh lính thuộc Lữ đoàn Độc lập Hỗn hợp 44 đến Okinawa để thiết lập phòng ngự tại đây.
Đến ngày 3 tháng 7, Sturgeon đụng độ với mới một đoàn chín tàu buôn được nhiều tàu hộ tống và máy bay tuần tra bảo vệ; nó ghi được ba quả ngư lôi trúng đích nhắm vào chiếc Tairin Maru (6.862 tấn), khiến chiếc tàu chở hàng lật úp qua mạn phải và đắm trong vùng biển Ryūkyū, tại tọa độ .