✨USS Salmon (SS-182)
USS Salmon (SS-182) là một tàu ngầm, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu mang tên nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào nữa sau thập niên 1930. Nó là chiếc tàu ngầm thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá hồi. Ngoài ra, tầm hoạt động mà không cần tiếp thêm nhiên liệu cho phép chúng tuần tra đến tận vùng biển nhà Nhật Bản. Hệ thống động lực "tổng hợp" bao gồm bốn động cơ diesel, gồm hai chiếc vận hành trực tiếp trục chân vịt và hai chiếc để chạy máy phát điện dùng cho nạp ắc quy hay tăng tốc trên mặt nước. Lườn tàu có cấu trúc vỏ kép một phần với hai đầu là vỏ đơn, vốn là một phiên bản hoàn thiện hơn của chiếc và áp dụng thành công trên lớp Porpoise Kiển P-3 và P-5, kỹ thuật hàn đã được các xưởng tàu áp dụng rộng rãi cho toàn bộ cấu trúc con tàu.
Salmon có chiều dài , với trọng lượng choán nước khi nổi là và khi lặn là . Vũ khí trang bị chính được tăng lên tám ống phóng ngư lôi , gồm bốn ống trước mũi và bốn ống phía đuôi, và được bổ sung máy tính dữ liệu ngư lôi để chúng hiệu quả hơn. Con tàu còn có một hải pháo 3 inch/50 caliber trên boong tàu và bốn súng máy M1919 Browning .30-caliber (7,62 mm).
Salmon được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Electric Boat Company ở Groton, Connecticut vào ngày 15 tháng 4, 1936. Nó được hạ thủy vào ngày 12 tháng 6, 1937, được đỡ đầu bởi cô Hester Laning, con gái Chuẩn đô đốc Harris Laning, Tư lệnh Quân khu Hải quân 3, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng 3, 1938 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Marvin M. Stephens.
Lịch sử hoạt động
1939–1941
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện dọc theo vùng bờ Đông từ khu vực Tây Ấn cho đến Nova Scotia, Salmon gia nhập Hải đội Tàu ngầm 6 trực thuộc Lực lượng Tàu ngầm Hạm đội Đại Tây Dương tại Portsmouth, New Hampshire, và đảm nhiệm vai trò soái hạm của Đội tàu ngầm 15, cho đến khi chuyển giao vai trò này cho tàu ngầm chị em vào cuối năm 1939 để chuyển sang vùng bờ Tây, đi đến San Diego, California.