✨Quách Hữu Nghiêm

Quách Hữu Nghiêm

Hoàng giáp Quách Hữu Nghiêm (郭有嚴, 1442-1503), quê xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình, quan nhà Lê sơ, dưới hai đời vua Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông, tới chức Thượng thư bộ Lại kiêm Đô ngự sử.

Tiểu sử

phải|Cổng đền - từ đường Thái Phúc, nơi thờ cụ Quách Đình Bảo và Quách Hữu Nghiêm

Quách Hữu Nghiêm sinh ngày 3 tháng 10 năm Nhâm Tuất (1442). Tất cả anh em nhà ông (mà người anh cả là Quách Đình Bảo) đều theo học quan Tế tử Quốc tử giám Nguyễn Thành. Năm 1466, niên hiệu Quang Thuận thứ 7, đời vua Lê Thánh Tông, ông thi đình đỗ Hoàng giáp, là một trong ba người đỗ đầu khoa thi đó. Sau một thời gian làm quan ở Hàn lâm viện, ông được cử giữ chức Tả thị lang bộ Lễ. Năm 1484, ông được phong phó Đô ngự sử Ngự sử đài. Năm Canh Thân (1500), ông được thăng Thái thường tự khanh. Năm 1502, ông được cử làm Chánh sứ đi sứ nhà Minh.

Lúc còn trẻ tài cao, hai anh em ông làm quan đồng triều, trải nhiều chức vụ cao. Năm Canh Tuất 1490, ông làm Phó đô ngự sử, rồi thăng Đô ngự sử và từng được giao nhiệm vụ coi việc thi Đình, làm Đề điệu trông coi hai khoa thi Đình năm Quý Sửu 1493, Bính Thìn 1496. Hiện nay có tên đường Quách Hữu Nghiêm tại quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

Hiện tại,tại thành phố Thái Bình cũng có đường Quách Hữu Nghiêm, tại phường Tiền Phong, gần với đường mang tên anh trai ông là Quách Đình Bảo.

Hoạt động về quân sự

Hai anh em ông từng theo vua Lê Thánh Tông đi chinh chiến mở mang bờ cõi, hành quân đánh chiếm Chiêm Thành và chinh chiến sang cả phía tây.

Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thân đi dẹp Chiêm Thành, lấy Quách Đình Bảo và Đỗ Nhuận làm quan đông các hiệu thư, Quách Hữu Nghiêm làm ký lục quân vụ, Ngô Sĩ Liên làm sử quan. Ông lo việc thư ký quân vụ, giải quyết việc ghi chép sổ sách, tổng hợp binh, lương... và truyền đạt mệnh lệnh. Khi đó Quách Hữu Nghiêm 29 tuổi được hầu bên Vua là vinh hạnh lớn. Ông siêng năng, sổ sách mạch lạc, tấu trình việc quân việc lương rành mạch, được vua yêu, cho gần thuyền ngự, ở gần long trại.

Đến cửa Đại Càn (cửa Cờn, Quỳnh Lưu, Nghệ An, có đền Cờn rất thiêng), đang vào mùa đông bỗng nổi gió chướng, cho nên không thể hành quân. Lệnh truyền rẽ vào sông Hoàng Mai, vừa cho binh lính nghỉ ngơi, vừa đợi thuyền lương của quan vận tải Nguyễn Phục. Xa giá ngự phía hữu ngạn, cạnh đền Hương Cần, tức đền Cờn (xã Hương Cần cũ, nay đổi là xã Quỳnh Phương). Vua Lê Thánh Tông thân vào thắp hương khấn lễ cầu thần linh phù hộ quân ta thắng trận. Quách Hữu Nghiêm ở trại tả ngạn, phía trong Dị Nậu. Nơi đây thật là kỳ diệu, núi gặp đồng bằng, sông gặp non xanh, núi gặp được biển, Quách Hữu Nghiêm làm thơ vịnh hào khí quân ta, ca ngợi non nước. Tại đây ông gặp bà Hồ Thị Thành, vốn dòng Hoàng tộc, người có tài cầm kỳ thi họa. Người quốc sắc kẻ văn tài, họ Quách họ Hồ tâm đầu ý hợp, được anh cả Quách Đình Bảo (cùng trong quân) cho phép, được đức vua Lê Thánh Tông ra ân, hai người đã làm lễ thành thân.

Đầu năm Tân Mão (1471), quân Đại Việt đánh vào tận kinh thành Chà Bàn (Vijaya, Bình Định), bắt được vua Chiêm là Trà Toàn. Kể từ đây, Chiêm Thành bị sáp nhập vào Đại Việt. Không còn nạn Chiêm Thành quấy nhiễu kinh đô Thăng Long nữa. Khi đại quân chiến thắng trở về, qua cửa Đại Càn (cửa Cờn), Quách Hữu Nghiêm được Vua và anh cả Quách Đình Bảo cho lưu lại quê ngoại ít ngày. Duyên trời xui khiến, bà Hồ Thị Thành có tin vui. Chín tháng sau thì sinh được Quách Quý Công, sau trở thành Anh Kiệt tướng quân và thành tổ chi họ Quách Hữu ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Anh Kiệt tướng quân sau này được cử làm thượng tướng, coi quân cẩm y vệ, luôn hầu giá bên vua.

Hoạt động về giáo dục

Quách Hữu Nghiêm làm việc tại Hàn Lâm Viện, giữ chức Tả Lang Bộ Lễ. Ông được cử làm đề điệu (Chánh chủ khảo) các khoa thi đình năm Canh Tuất (1490), Quý Sửu (1493), Bính Thìn (1496). Năm 1484, ông đã tâu với vua Lê Thánh Tông và được Vua chấp thuận về việc cải cách chế độ học bổng với học sinh Quốc Tử Giám. Không dừng lại ở lĩnh vực giáo dục khoa cử, với chức trách làm việc ở Ngự sử đài, trung thực nói thẳng, giám sát và xét thật công bằng việc của trăm quan trước mặt Nhà vua.

Hoạt động về luật pháp

Thời vua Hiến Tông năm 1499 khi cụ Nghiêm nghiên cứu về pháp luật trước bối cảnh xã hội lúc đó, tệ quan liêu, cường hào đã làm cho dân chúng khổ sở. Cụ Nghiêm tấu trình và được Vua chấp thuận, khiến kẻ gian ác biết được sợ hãi mà không dám buông tuồng hung bạo.

Hoạt động ngoại giao và tài văn chương

Trong bối cảnh lịch sử thời Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông, đối với công việc ngoại giao với Nhà Minh, chính quyền phong kiến Đại Việt thời đó đã tỏ ra sáng suốt và khôn khéo, mềm dẻo về sách lược, cứng rắn về nguyên tắc, nó được thể hiện qua lời tuyên ngôn của Lê Thánh Tông "Kẻ nào dám đem một tấc đất của Lê Thái Tổ làm mồi cho giặc, kẻ đó sẽ bị trị tội tru di".

Năm Nhâm Tuất 1502, Quách Hữu Nghiêm giữ chức Chánh sứ sang nhà Minh với duyên cớ tạ ơn mũ áo, nhằm tiếp tục duy trì quan hệ ngoại giao mềm dẻo với họ. Với trách nhiệm nặng nề là cầm đầu đoàn sứ bộ, song với tài thông minh, lanh lẹ ứng đối, xử lý các công việc như thần, Quách Hữu Nghiêm đã tỏ ra là một nhà ngoại giao xuất sắc mà có lẽ công việc này cũng là đắc trí nhất trong đời làm quan của Cụ. Sử gia Phan Huy Chú nhận xét là "Nhà ngoại giao đầy mưu chước chính trị".

Năm Quý Hợi tháng 3, khi sắp về nước sứ ta vào bệ kiến vua Minh để tạ từ, nhân nhìn thấy trên sân rồng ánh nắng chiếu qua cái lọng bị thủng lỗ (có lẽ là mái nhà thủng), vua Minh đã ra câu đối rằng:

:"Ốc lậu nhật xuyên hình như kê noãn tam tam tứ tứ".

Dịch là: Nhà thủng mặt trời xuyên qua, hình như trứng gà ba ba bốn bốn.

:Sứ ta đối lại: :"Giang trường phong lộng thế tự long lân điệp điệp trùng trùng".

Dịch là: Sông lớn gió thổi giống như vẩy rồng trùng trùng điệp điệp.

Vua Minh thấy ông đối chỉnh ý, chỉnh chữ mà hùng khí lẫm liệt, ngợi khen hết lời. Qua tài thông minh, ứng đối mau lẹ qua các bài biểu, bài tâu đối trí, những lần được mời lên trên điện, vua Minh ban cho áo đại hồng có thêu con dê thần và đám mây bằng kim tuyến xen chỉ tơ sống, chỉ gai. Giao cho thượng thư bộ binh cấp cho đoàn sứ bộ ta một thuyền lớn để trở về nước. Vua Minh ban cho Quách Hữu Nghiêm bốn chữ "Tam Đại Di Tài", xếp ông là nhân tài thời tam đại. Lần đi sứ này đoàn sứ bộ Việt Nam được Bắc Kinh đón tiếp rất trọng thể, đưa lại kết quả rất tốt đẹp và có thể nói rằng chưa có trong lịch sử ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc trước đó.

Vua Minh hỏi: Đường về quê có nơi nào sông rộng, nước sâu nhất? Sứ thần tâu: Sâu nhất là cửa Côn Giang. Vua lấy chiếc hòm quý đề mấy chữ không cho biết là gì, dặn khi nào về đến sông Côn hãy mở ra.

Tháng 7 năm Quý Hợi (1503), sứ bộ về đến Thăng Long. Vua Lê Hiến Tông khen ông: "Toàn quân mệnh, tráng quốc uy", nghĩa là làm vẻ vang quốc thể, rạng rỡ quân vương và thăng lên chức thượng thư Bộ Lại. Vua lưu giữ cụ Nghiêm tại kinh thành hai tháng, rồi cho phép về thăm quê. Về tới bến Côn Giang, ông sai quân mở chiếc hòm quý ra, thấy có bốn chữ bằng bạch kim "Côn Giang lão nhân". Tương truyền tự nhiên ông không ốm mà mất. Sau đó trời nổi phong ba và thuyền quan bị đắm. Trên thuyền khi đó còn có 92 quan quân tùy tùng cũng mất theo.

Hôm ấy là ngày 9/9 năm Quý Hợi (1503). Ông hưởng thọ 62 tuổi. Vua Lê Hiến Tông vô cùng thương xót, ban tặng thụy hiệu là "Táp Trai", cấp cho quan tài đồng, cử qụan Bộ Lễ về tế. Nhà Vua còn phong sắc là "Thượng Đẳng Thần".

Vua ban chỉ dụ xây đền thờ ông Quách Hữu Nghiêm tại làng Thuyền Quan, gọi là đền Côn Giang và ban cho 50 mẫu ruộng công điền để bốn mùa hương khói tế lễ. Làng Thuyền Quan nay đổi thành xã Thái Hà, huyện Thái Thụy, Thái Bình. Đền Côn Giang là đền cổ, tồn tại nguyên vẹn đến tận ngày nay với tuổi đời hơn 500 năm. Năm 2010-2011, gia đình ông Quách Tuấn Ngọc chủ trì cùng con cháu họ Quách đã tu bổ, tôn tạo đền Côn Giang và phần mộ, làm cho đền được khang trang, uy nghiêm, đẹp đẽ.

Năm 2013, Bộ Văn Hóa Thể thao và Du linh đã đầu tư trùng tu lớn đền Côn Giang.

Hiện nay, đều đặn hàng năm, dân làng các xã xung quanh đều tổ chức 5 ngày lễ hội đền Côn Giang để tưởng nhớ ngày mất của ông.

Lễ tế ông Quách Hữu Nghiêm nhân ngày kỵ (cửu trùng) 9/9 hàng năm Ông Nghiêm còn có đền thờ tại xã Thái Tân, Thái Thuỵ, Thái Bình, là nơi ông dạy học trong thời gian ở nhà chịu tang.

Lúc ở quê nhà, cụ Nghiêm kết duyên với tổ mẫu Tạ Thị Cứu, tức Bồ Đề phu nhân, sinh ra Quách Đình NhânQuách Thị Xuân Dung. Cô Xuân Dung được phong làm công chúa, con nuôi vua Lê Thánh Tông. Cô mất lúc còn rất trẻ. Bà Tạ Thị Cứu quê gốc tại Tiên Lữ, Hưng Yên nên sinh ra chi họ Quách Hữu tại Tiên Lữ.

Năm 1471, trên đường hành quân đi chinh phạt Chiêm Thành, khi dừng quân tại Quỳnh Lưu, Nghệ An, cụ Nghiêm bén duyên với bà thứ là Hồ Thị Thành. Năm sau sinh hạ được một con trai và sau này hình thành nên chi Quách Hữu tại Quỳnh Lưu.

Đền Thái Tân, một nơi khác có đền thờ cụ Quách Hữu Nghiêm

Giai thoại

Về sự kiện ông mất ngày 9/9 có giai thoại như sau:

Khi đi sứ, ông chơi thân với một thầy Tàu giỏi tử vi. Trước khi ông về, được thầy Tàu xem và báo ngày mất. Quách Hữu Nghiêm là người sống phóng khoáng, rất có tài biện luận. Khi phụng mệnh đi sứ sang Trung Quốc, gặp một người giỏi về đẩu số, chơi với nhau rất thân ái, nên lúc Quách Hữu Nghiêm về, người ấy trao cho một phong thư và bảo: Về đến nhà hãy mở ra xem. Tới kinh sư, Quách Hữu Nghiêm mở thư thì chỉ thấy có một mảnh giấy, ghi rõ ngày mất của Quách Hữu Nghiêm và câu đề tiếp là ông sẽ được làm Thành Hoàng xã Thuyền Quan. Huyện ấy sẽ lập miếu thờ ở bến sông. Quách Hữu Nghiêm không thích lời sấm ấy nhưng quả là ông về nước ít lâu thì mất. Sau thường hiển linh ở xã Thuyền Quan.".

Tài liệu tham khảo còn có Nam Châu đồng phả, bản gốc tiếng Hán. Năm 1976 được Ty Văn hoá Thái Bình dịch sang tiếng Việt.

Nội dung ghi văn bia chủ yếu dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư (Tập 12, tập 13) và Nam châu đồng phả (gia phả họ Quách, bản gốc tiếng Hán - Nôm, được Sở Văn hóa Thái Bình dịch năm 1976).

Đền thờ - từ đường và khu lăng mộ của Quách Đình Bảo tại thôn Phúc Tiền, xã Thái Phúc, Thái Thụy, tỉnh Thái Bình cùng với đền Côn Giang thờ Quách Hữu Nghiêm (xã Thái Hà, Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình) đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá quốc gia. Tại đền - từ đường Thái Phúc có bức đại tự ghi bốn chữ Thi lễ truyền gia do vua Lê Thánh Tông ban tặng cho gia tộc họ Quách.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Hoàng giáp **Quách Hữu Nghiêm** (郭有嚴, 1442-1503), quê xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình, quan nhà Lê sơ, dưới hai đời vua Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông, tới chức Thượng
**Quách** là một họ của người thuộc vùng Văn hóa Đông Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, Triều Tiên (Hangul: 곽, Romaja quốc ngữ: Gwak), Nhật Bản (Kanji: 郭, Romaji: Kaku) và Trung
**Quách Đình Bảo** (1434–1508) là một chính trị gia thời vua Lê Thánh Tông. Theo Lịch triều hiến chương loại chí, ông là một trong 18 vị quan phò tá có công lao và tài
**Quách Tử Nghi** (chữ Hán: 郭子儀; 5 tháng 9, 697 – 9 tháng 7, 781), là một danh tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ dưới 4 đời Hoàng đế nhà
**Quách Thị Lan Phương** (sinh năm 1977 tại Hòa Bình), thường được biết đến với nghệ danh **Quách Thu Phương**, là một nữ diễn viên người Việt Nam. Cô được biết đến qua những vai
**Quách Hoài** (chữ Hán: 郭淮, Bính âm: Guo Huai; 187–255) là tướng nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ Quách Hoài có tên tự là **Bá Tế** (伯濟),
**Bàn thành tứ hữu** tức _Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn_, hay còn gọi là **Nhóm thơ Bình Định**, là một nhóm thơ đã phát sinh và tồn tại trên đất Bình Định từ
**Quách Đàm** (phồn thể: 郭琰 bính âm Hán ngữ: Guō Yǎn; 1863-1927) là một thương gia giàu có, và là người có công xây dựng nên chợ Bình Tây; nay thuộc quận 6, Thành phố
Đây là danh sách những di tích tại tỉnh Thái Bình: ## Danh sách tổng quát ## Huyện Quỳnh Phụ ;Di tích cấp quốc gia 1 Đền Đồng Bằng 2 Miếu Hòe Thị 3 Đình,
**Quách Anh** (1335 – 1403) là một danh tướng và khai quốc công thần nhà Minh. Theo Chu Nguyên Chương, ông trải qua hơn 500 trận chiến lớn nhỏ, từng cùng với Từ Đạt và
**Thái Bình** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Theo cuộc Tổng điều tra dân
**Lương Thế Vinh** (chữ Hán: 梁世榮; 17 tháng 8 năm 1441 – 2 tháng 10 năm 1496, tên hiệu là **Thụy Hiên**) là một nhà toán học, nhà thơ và học giả người Việt Nam.
**Hoàng giáp** () là một loại (gọi là giáp) danh hiệu của học vị Tiến sĩ Nho học trong hệ thống khoa bảng thời phong kiến. Loại danh hiệu này được xác định trong kỳ
**Quách Thành Lai** (1949 - 2018) là một doanh nhân người Việt Nam. Ông là người gốc Hoa, quê ở Vĩnh Châu (trước thuộc tỉnh Bạc Liêu, nay thuộc tỉnh Sóc Trăng). Ông nguyên là
**Đàm Thận Huy** (譚愼徽, 1463 - 1526), hiệu **Mặc Trai** (默齋), là một chính trị gia và nhà thơ thời Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông làm quan trải các đời vua Lê
**Tô Hữu Bằng** (sinh ngày 11 tháng 9 năm 1973) là nam diễn viên, ca sĩ Đài Loan, thành viên của ban nhạc Tiểu Hổ Đội từ năm 15 tuổi cùng với Ngô Kỳ Long,
**Tao Đàn nhị thập bát tú** (騷壇二十八秀) hoặc **Hội thơ** **Tao Đàn** là tên gọi của hậu thế cho hội xướng họa thi ca mà Hoàng đế Lê Thánh Tông sáng lập vào năm 1495
**_Một thời ta đuổi bóng_** là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Công ty Sóng Vàng do Trương Dũng làm đạo diễn. Phim được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của
**Thám hoa** (chữ Hán:探花) là một loại danh hiệu của học vị Tiến sĩ trong hệ thống khoa bảng Nho học thời phong kiến ở các quốc gia Đông Á. Ở Việt Nam, danh hiệu
LEMONADE WANT IT GOT IT LIPCREAM - SON KEM LỲ NHẸ MÔI___________________________ Chất son mỏng mịn, siêu nhẹ trên môi, cho bờ môi lỳ đầy đặn nhưng vẫn căng mọng và hoàn toàn không có
LEMONADE WANT IT GOT IT LIPCREAM - SON KEM LỲ NHẸ MÔI___________________________ Chất son mỏng mịn, siêu nhẹ trên môi, cho bờ môi lỳ đầy đặn nhưng vẫn căng mọng và hoàn toàn không có
LEMONADE WANT IT GOT IT LIPCREAM - SON KEM LỲ NHẸ MÔI___________________________ Chất son mỏng mịn, siêu nhẹ trên môi, cho bờ môi lỳ đầy đặn nhưng vẫn căng mọng và hoàn toàn không có
MATTE ADDICT DUAL CUSHION COLLECTION - Phấn nước có kèm Face Filler kiềm dầu!!❤ CÔNG DỤNG SẢN PHẨMFACE FILLER (2g):Kem lót dạng balm là bước makeup nền đầu tiên giúp làn da mịn màng, che
**Phạm Đan Trường** (sinh ngày 29 tháng 11 năm 1976), thường được biết đến với nghệ danh **Đan Trường**, là một nam ca sĩ kiêm diễn viên người Việt Nam. Là ca sĩ gắn liền
**Phan Khắc Hy** (1 tháng 1 năm 1927-20 tháng 9 năm 2024) là một cựu sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
**Đại lễ nghị** (chữ Hán: 大礼議), có nghĩa _"Tranh nghị về Đại lễ"_, là một loạt những cuộc tranh luận về vấn đề tôn hiệu dành cho thân sinh của Minh Thế Tông Gia Tĩnh
**Huỳnh Minh Hưng**, thường được biết đến với nghệ danh **Đàm Vĩnh Hưng** (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1971), là một nam ca sĩ người Việt Nam. Anh bắt đầu được công chúng biết
**Pháo đài Provintia** hay **Providentia** là một tiền đồn của người Hà Lan trên đảo Đài Loan, hiện nay tọa lạc ở Quận Trung Tây của thành phố Đài Nam thuộc Trung Hoa Dân Quốc.
**Nguyễn Trọng Trí**, thường được biết đến với bút danh **Hàn Mặc Tử** hay **Hàn Mạc Tử** (22 tháng 9 năm 1912 – 11 tháng 11 năm 1940), là một nhà thơ người Việt Nam.
**Châu Kiệt Luân** (, nghệ danh tiếng Anh: **Jay Chou**, sinh ngày 18 tháng 1 năm 1979) là một ca sĩ, nhạc sĩ, rapper, nhà sản xuất âm nhạc, diễn viên, đạo diễn, doanh nhân
**Vân Quang Long** (26 tháng 9 năm 1979 – 29 tháng 12 năm 2020) tên thật là **Lê Quang Hiển**, là một nam ca sĩ người Việt Nam. Anh từng là thành viên của nhóm
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Ngũ đại Thập quốc** (, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ.
**Loạn An Sử** (chữ Hán: 安史之亂: _An Sử chi loạn_) là cuộc biến loạn xảy ra giữa thời nhà Đường vào thời Đường Huyền Tông Lý Long Cơ trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Thập Quốc Xuân Thu** () là một sách sử theo thể kỷ truyện do Ngô Nhâm Thần (吳任臣) thời nhà Thanh biên soạn. Bộ sách có tổng cộng 114 quyển Bộ sách hoàn thành vào
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Gia Cát Lượng** (; 181 – 234), biểu tự **Khổng Minh** (孔明), hiệu **Ngọa Long** (臥龍), là Thừa tướng, công thần khai quốc, nhà chính trị, nhà ngoại giao, chỉ huy quân sự, nhà giáo
**Chân hoàng hậu** (; 26 tháng 1 năm 183 - 4 tháng 8, 221), còn được gọi là **Chân Phục** (甄宓) hoặc **Chân Lạc** (甄洛), đương thời xưng là **Chân phu nhân** (甄夫人), là nguyên
**Mã Siêu** (chữ Hán: 馬超, bính âm: Mǎ Chāo, 176-222), tự **Mạnh Khởi** (孟起), là một võ tướng cuối thời Đông Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông mang trong mình
**Cựu Ngũ Đại sử** (chữ Hán: 旧五代史) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Tiết Cư Chính thời Bắc Tống viết
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa **Thời Tam Quốc** là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc với nhiều nhân vật trong lịch sử, nó cũng là thời đại tạo nguồn cảm hứng cho
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Thiểm Tây** (, ) là một tỉnh của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Thiểm Tây là tỉnh đông thứ mười sáu về số dân, đứng thứ mười lăm về kinh tế Trung
**Thiện nhượng** (_chữ Hán_: 禪讓) có nghĩa là _nhường lại ngôi vị_, được ghép bởi các cụm từ **Thiện vị** và **Nhượng vị**, là một phương thức thay đổi quyền thống trị của những triều
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị