✨Quách Hoài

Quách Hoài

Quách Hoài (chữ Hán: 郭淮, Bính âm: Guo Huai; 187–255) là tướng nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

Thời trẻ

Quách Hoài có tên tự là Bá Tế (伯濟), người huyện Dương Khúc quận Thái Nguyên (thuộc Tinh châu).

Ông nội Quách Hoài là Quách Toàn, làm Đại tư nông thời Đông Hán, cha ông là Quách Ôn làm thái thú Nhạn Môn.

Những năm đầu niên hiệu Kiến An của Hán Hiến Đế, Quách Hoài thi đỗ Hiếu Liêm, được phong chức quan Bình Nguyên phủ thừa.

Khi Tào Phi còn làm Ngũ quan tướng, cho mời Quách Hoài vào làm môn hạ dưới trướng, sau đổi làm Thừa tướng Binh tào Nghị lệnh sử.

Sự nghiệp

Thời Tào Tháo

Ông từng theo Tào Tháo đánh Trương Lỗ ở Hán Trung, khi Tào Tháo quay về, lưu Chinh tây tướng quân Hạ Hầu Uyên chống giữ với Lưu Bị, lấy Quách Hoài làm Tư mã giúp việc Hạ Hầu Uyên. Khi Hạ Hầu Uyên cùng Lưu Bị giao chiến (219), Quách Hoài bị bệnh không đi theo.

Hạ Hầu Uyên tử trận, trong quân rối loạn, Quách Hoài đứng ra thu gom những binh sĩ tản mát, lại tiến cử Đãng khấu tướng quân Trương Cáp làm chủ soái, các doanh trại mới tạm yên. Hôm sau Lưu Bị định vượt sông Hán tấn công. Chư tướng bàn rằng thế quân đông ít khó đối địch, sợ Lưu Bị thừa thắng tràn sang, muốn dựa sông bầy trận để chống cự. Quách Hoài nói: :"Làm như thế là tỏ ra ta yếu thế, nếu như chẳng đủ bẻ gẫy được quân địch, ấy là toan tính sai lầm vậy. Chẳng bằng cứ cách xa sông mà bày trận, kệ cho địch tiến sang, quân kia sang nửa chừng ta sẽ đánh, có thể phá được quân của Bị."

Rồi ông bầy trận đón đợi, Lưu Bị nghi ngờ không dám vượt sông. Quách Hoài kiên trì thủ thế, đất ấy mới giữ được. Quách Hoài lại làm văn biểu tấu trình, Tào Tháo rất khen việc ấy, ban cho Cáp Giả tiết, lại lấy ông làm Tư mã.

Thời Tào Phi

Năm 220, Tào Tháo mất, Tào Phi lên thay làm Ngụy vương, ban cho ông tước Quan nội hầu, chuyển làm Trấn tây Trưởng sử, sau đó làm Hành chinh Khương Hộ quân, giúp đỡ Tả tướng quân Trương Cáp và Quán quân tướng quân Dương Thu đánh dẹp quân nổi dậy trong núi là Trịnh Cam, Lô Thủy làm phản ở đất rợ Hồ, đều dẹp yên. Vùng Quan Trung mới được yên định, dân chúng yên ổn làm ăn.

Tháng 10 năm 220, Tào Phi giành ngôi nhà Hán, tức Tào Ngụy Văn Đế. Quách Hoài vâng mệnh về kinh chúc mừng Văn Đế lên ngôi, lúc đi đường bị bệnh, khiến cho mọi người phải chờ đợi. Lúc quần thần gặp gỡ nhau, Tào Phi nghiêm mặt trách mắng ông. Quách Hoài thưa rằng: :''"Thần nghe rằng Ngũ Đế trước lấy đức dẫn dụ dân, sau lấy khuôn phép để trị, rồi mới dụng hình để sáng tỏ phép nước. Nay không ngờ thần gặp phải chuyện như thuở Đường Ngu dạo trước, cũng đoán rằng sẽ được miễn khỏi tội bị giết như Phòng Phong". '' Ngụy Văn Đế nghe nói rất hài lòng, lại cất nhắc Quách Hoài làm thứ sử Ung châu, phong làm Xạ dương Đình hầu, giữ ông ở cương vị ấy 5 năm liền.

Các đầu mục người Khương ở An Định dấy binh nổi dậy, Quách Hoài đến đánh dẹp chiêu hàng. Mỗi khi có quân Khương Hồ ra hàng, ông thường sai người gạn hỏi thân hữu của người ấy mọi lẽ, xem gia đình nam nữ nhiều ít thế nào, tuổi tác cao thấp ra sao; khi gặp mặt, nói một đôi điều đã biết cho họ nghe, khi tra hỏi lại, họ đều khen tụng là bậc thần minh.

Thời Tào Duệ

Năm 228, tướng Thục là Gia Cát Lượng ra Kỳ sơn, sai tướng quân Mã Tốc đến Nhai Đình, Cao Tường đóng binh ở thành Liệt Liễu. Trương Cáp đánh Mã Tốc, Quách Hoài tấn công doanh trại của Cao Tường, đều phá được. Quách Hoài lại đánh tan quân của Khương tướng là Đường Phiếm ở Bào Hãn, được gia thêm chức Kiến Uy tướng quân.

Năm 230, Gia Cát Lượng mang quân Thục xuất binh ra Lỗ Thành. Lúc đó quân ở Lũng Hữu không có lương thảo, mọi người bàn nên vận lương từ Quan Trung đến. Quách Hoài lấy ân uy của mình phủ dụ các tộc Khương Hồ, khiến họ chịu bỏ lương thảo giúp đỡ, nhờ có lương ấy, mà quân binh đủ chi dụng, Hoài được thăng làm Dương Vũ tướng quân.

Năm 233, Gia Cát Lượng xuất binh ra Tà Cốc, lập đồn điền ở Lan Khanh. Lúc bấy giờ Tư Mã Ý đóng binh ở Vị Nam. Quách Hoài tính rằng Gia Cát Lượng tất tranh chiếm Bắc Nguyên, nên định đóng quân đó trước. Ông bàn với Tư Mã Ý: :"Nếu như Lượng vượt Vị Thủy đến chỗ đất bằng, hợp binh ở Bắc Sơn, chẹn ngang Lũng đạo, sách động nhân tâm người Di ở đó, thế chẳng phải là cái lợi của quốc gia vậy."

Tư Mã Ý khen hay, Quách Hoài liền đóng binh ở Bắc Nguyên. Hào luỹ còn chưa dựng xong, đại binh Thục đã đến, ông dẫn quân đón đánh. Mấy ngày sau, Lượng chỉnh đốn binh mã đi về phía Tây, các tướng đều cho rằng Lượng sẽ vây đánh ở phía Tây, riêng Hoài biết rõ hình thế ở đó, đoán rằng Lượng ắt đánh ở mé Nam sông Vị, liền cắt cử quan binh chống giữ. Đêm ấy quả nhiên Lượng đến bờ Nam sông Vị, bởi đã có phòng bị nên quân Thục không lên bờ được.

Thời Tào Phương

Năm 240 thời Tào Phương, tướng Thục là Khương Duy tiến ra Lũng Tây. Quách Hoài bèn dẫn quân đến đánh, đuổi theo đến tận Cường Trung, Khương Duy lui binh, Hoài liền đánh dẹp quân của vua Khương là Mễ Đương, lại dùng sự mềm mỏng vỗ yên được hơn 3.000 người trong bộ lạc rợ Đê, di dời họ vào đất Quan Trung. Bởi công lao đó, Quách Hoài được thăng chức lên làm Tả tướng quân.

Thủ lĩnh quân nổi dậy ở Lương châu là Hưu Đồ Hồ xin theo về triều đình Tào Ngụy, dẫn cả bộ lạc hơn 2.000 hộ đến nương cậy ở đất Ung châu. Hoài tấu lên trên xin cho được cư trú ở đất Cao Bình thuộc An Định. Quách Hoài được phong làm Tiền tướng quân, kiêm quản châu quận như cũ.

Năm 244, Hạ Hầu Huyền đánh Thục, Quách Hoài đốc quân tiên phong. Bởi Hoài liệu chừng thấy tình thế bất lợi, liền nhổ trại lui binh, cho nên không bị thua lớn. Hoài đem trả lại phù tiết.

Năm 247, người Khương ở Lũng Tây, Nam An, Kim Thành, Tây Bình là Ngạ Hà, Thiêu Qua, Phạt Đồng, Nga Già Tắc cùng cấu kết với nhau nổi dậy, tấn công vây hãm thành ấp, lại hướng về Nam xin Thục binh tương trợ. Thủ lĩnh người Hồ ở Lương châu là Trì Vô Đái cũng hưởng ứng. Nhà Ngụy lấy Hộ quân Hạ Hầu Bá đốc xuất ba quân đóng binh ở Vị Thí ngăn chặn. Quân Quách Hoài lúc mới đến Địch Đạo, các tướng bàn bạc đều cho rằng trước tiên nên dẹp yên xứ Bào Hãn, nội bình định rợ Khương, ngoài bẻ gẫy toan tính của kẻ địch. Quách Hoài tính rằng Khương Duy ắt sẽ tiến ra đánh Bá, bèn xâm nhập đất Phong Trung, đi vòng về phía Nam nghênh đón Bá. Khương Duy quả nhiên tấn công vào Vị Thí, vừa gặp quân của Hoài cũng đến đó, Khương Duy vội lui binh. Quách Hoài tiến quân đánh dẹp quân Khương, chém chết Nga Hà, Thiêu Qua, thu hàng được hơn một vạn người.

Năm 248, Nga Già Tắc tụ tập thuộc hạ ở Hà Quan, Bạch Thổ Thành, nương náu nơi sông Hà chống cự quân Ngụy. Quách Hoài nắm rõ hình thế thượng lưu, mật sai binh sĩ qua sông phục sẵn ở Bạch Thổ Thành, tập kích, đại phá được.

Trì Vô Đái bao vây Vũ Uy, gia quyến vẫn ở Tây Hải. Hoài tiến quân đến Tây Hải, muốn ngầm bắt gia thuộc của Đái để lung lạc Đái, Đái đoán biết việc ấy liền quay về, đánh nhau ở phía bắc Long Di, Đái thua trận bỏ chạy. Lại chiếm cứ đất Ác Lỗ ở phía tây Thạch Đầu sơn, đoạn tuyệt vương mệnh. Hoài đến đó đánh dẹp, đại phá được.

Khương Duy tiến ra Thạch Thao, theo lối Cường Xuyên, hướng về Tây nghênh đón Vô Đái, để thái thú Âm Bình là Liêu Hoá giữ Trọng Sơn xây đắp thành quách, thu nhặt quân Khương tản mát ở các nơi. Quách Hoài muốn chia binh đến đánh. Chư tướng cho rằng Khương Duy sẽ cấu kết với quân Hồ, Hoá lại chiếm giữ nơi đất hiểm, nếu chia quân sẽ hai đầu thụ địch, binh lực bị suy yếu, tiến không thể đánh được Duy, lui không dẹp được Hoá, chẳng phải là kế hay, chẳng bằng hợp binh ở phía tây, để rợ Hồ và quân Thục không liên kết được với nhau, cắt đứt liên kết trong ngoài, ấy là đánh thẳng vào mối kết giao của kẻ địch vậy. Quách Hoài nói: :"Nay ta vượt qua quân của Hoá, tiến ra nơi địch không để ý, Duy tất phải kéo về chỗ đó. Duy đã bị lừa đến đó, ta đủ sức dẹp yên được Hoá, lại khiến cho Duy mỏi mệt phải bỏ chạy. Quân ta chẳng cần tiến về phía Tây, mà rợ Hồ phải tự tan, ấy là kế sách ‘nhất cử lưỡng toàn’ vậy."

Rồi ông biệt phái Hạ Hầu Bá chực sẵn để đuổi Khương Duy ở Đạp Trung, Quách Hoài tự suất ba quân tới tấn công Hoá. Khương Duy quả nhiên quay về cứu Hoá, đều đúng như trù liệu của Hoài. Nhờ công lao ấy, Quách Hoài được tiến phong làm Đô hương hầu.

Năm 249, ông được thăng Chinh tây tướng quân, đô đốc các việc quân sự ở Ung, Lương châu. Năm ấy, cùng với thứ sử Ung châu là Trần Thái bàn định kế sách, thu hàng Nha môn tướng nước Thục là Cẩu An ở Thí Thượng.

Năm 250, Quách Hoài được tiến phong làm Dương Khúc hầu, ban cho ăn lộc 2.780 hộ, phong cho một con làm Đình hầu.

Năm 255, Quách Hoài qua đời, thọ 69 tuổi. Ông được truy tặng chức Đại tướng quân, thuỵ hiệu là Trinh hầu.

Gia đình

Con ông là Quách Thống nối tự và làm quan đến chức thứ sử Kinh châu.

Em trai ông là Quách Phối, cũng có danh vọng, ngôi vị đến chức thái thú Thành Dương, là con rể của Phỉ Tú và Giả Sung. Con Quách Phối là Quách Triển cũng có tài cán, đã từng giữ chức Trứ Tích, sau cùng làm đến Thái phó. Em trai Triển là Dự làm Tham quân cho Tướng quốc, cũng có danh, chết sớm. Con gái Phối gả cho Vương Diễn.

Người em trai nữa của Quách Hoài là Quách Trấn làm Yết giả Phó xạ. Con Quách Trấn là Dịch, sau này giữ các chức vị thứ sử Ung châu, Thượng thư nhà Tấn.

Đánh giá

Trần Thọ đánh giá về Quách Hoài trong Tam Quốc chí là người "phương sách tinh tường, biết chăm lo cho xứ Tần, Ung".

Trong Tam Quốc diễn nghĩa

Tuy không nằm trong số nhân vật chính trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, nhân vật Quách Hoài vẫn có vai trò khá lớn trong việc bảo vệ biên cương phía tây Tào Ngụy bên cạnh Tư Mã Ý và Tào Chân.

Cái chết của ông được La Quán Trung hư cấu khác trong sử sách do quan điểm đứng về phe Thục. Theo đó, trong lần thứ tư Khương Duy đánh Ngụy, Quách Hoài dùng mưu đánh tan quân Thục. Trên đường truy kích Khương Duy, Quách Hoài một mình một ngựa đuổi theo. Khi ông bắn Khương Duy, Khương Duy nghiêng người né và nhanh tay bắt được mũi tên, rồi dùng chính mũi tên đó bắn trả lại, trúng vào trán Quách Hoài. Quách Hoài ngã ngựa, quân Ngụy phía sau ùa đến cứu ông, Khương Duy quay lại nhưng chỉ kịp giật lấy ngọn giáo của ông và bỏ chạy. Quách Hoài được đưa về trại nhưng máu chảy không cầm và qua đời.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quách Hoài** (chữ Hán: 郭淮, Bính âm: Guo Huai; 187–255) là tướng nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ Quách Hoài có tên tự là **Bá Tế** (伯濟),
**Quách** là một họ của người thuộc vùng Văn hóa Đông Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, Triều Tiên (Hangul: 곽, Romaja quốc ngữ: Gwak), Nhật Bản (Kanji: 郭, Romaji: Kaku) và Trung
**Hai mươi bốn tướng Hoài Tây thời Minh sơ** (chữ Hán: 明初淮西二十四将, _Minh sơ Hoài Tây nhị thập tứ tướng_) là 24 vị mãnh tướng theo phò trợ thủ lĩnh nông dân Chu Nguyên Chương
**Quách Thị Lan Phương** (sinh năm 1977 tại Hòa Bình), thường được biết đến với nghệ danh **Quách Thu Phương**, là một nữ diễn viên người Việt Nam. Cô được biết đến qua những vai
**Bộc Cố Hoài Ân** (, ?-765) là tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông dự triều chính từ thời Đường Huyền Tông đến thời Đường Đại Tông và tham gia dẹp loạn An
**Quách Tử Nghi** (chữ Hán: 郭子儀; 5 tháng 9, 697 – 9 tháng 7, 781), là một danh tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ dưới 4 đời Hoàng đế nhà
là tiết độ sứ Sóc Phương dưới triều nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ban đầu, Lý Hoài Quang là thuộc tướng dưới quyền đại tướng quân Quách Tử Nghi. Sau khi Quách Tử
**Quách Tấn** (1910 – 1992), tự là **Đăng Đạo**, hiệu **Trường Xuyên**, các tiểu hiệu là **Định Phong, Cổ Bàn Nhân, Thi Nại Thị, Lão giữ vườn**; là một nhà thơ Việt Nam. Ông cùng
**Quách Quỳ **(tiếng Trung: 郭逵, 1022—1088), tự **Trọng Thông**, tổ tiên là người gốc Cự Lộc (nay là huyện Trác, Hà Bắc, Trung Quốc), sau di cư tới Lạc Dương. Ông là con trai thứ
**Quách Thánh Thông** (chữ Hán: 郭聖通; 1 - 52), còn gọi **Quang Vũ Quách hoàng hậu** (光武郭皇后) hay **Phế hậu Quách thị** (废后郭氏), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Quang Vũ
**Quách Anh** (1335 – 1403) là một danh tướng và khai quốc công thần nhà Minh. Theo Chu Nguyên Chương, ông trải qua hơn 500 trận chiến lớn nhỏ, từng cùng với Từ Đạt và
**Quách Mai Thy** (sinh năm 1994), là một nữ ca sĩ giành ngôi vị quán quân - Giải nhất Liên hoan tiếng hát truyền hình toàn quốc - giải Sao Mai 2019 phong cách dân
**Nhân Tông Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁宗郭皇后, 1012 - 1035), pháp danh **Thanh Ngộ** (清悟), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Dưới thời nhà Tống, bà
**Cung Túc Quý phi** (chữ Hán:恭肅貴妃; ? – 1425), họ Quách, là một phi tần rất được sủng ái của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí. Bà cũng nổi tiếng là vị phi tần dù
**Quách Thị Hồ** (11 tháng 6 năm 1909 – 4 tháng 1 năm 2001) là một bậc thầy về ca trù và là danh ca ca trù nổi tiếng. Bà là người đầu tiên đưa
**Hiếu Nguyên Trinh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝元貞皇后, 1580 - 1613), hay còn gọi **Cung Tĩnh Thái tử phi** (恭靖太子妃), là nguyên phối của Minh Quang Tông Chu Thường Lạc khi ông còn là Hoàng
**Võ Nguyễn Hoài Linh** (sinh ngày 18 tháng 12 năm 1969), thường được biết đến với nghệ danh **Hoài Linh**, là một nam diễn viên kiêm nghệ sĩ hài người Việt Nam. Ông là một
**Thành Mục Hoàng hậu** (chữ Hán: 成穆皇后; 1126 - 1156), là chính thất đầu tiên của Tống Hiếu Tông Triệu Bá Tông. Bà chưa từng được làm Hoàng hậu, danh vị Hoàng hậu của bà
**_Dạ cổ hoài lang_** là bản nhạc do nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác, nói về việc nghe tiếng trống trong đêm mà thương nhớ chồng. Từ bản _Dạ cổ hoài lang_ mỗi câu
**Quách Vĩnh Thiện** là một nhạc sĩ sống tại Paris (Pháp), được biết đến trong khoảng 2009-2010 khi ông cho ra đời những CD phổ nhạc Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. thumb|QVThien-ThanhVan-26-03-2011-Bruxelles
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
**Trần Thái** (chữ Hán: 陳泰; ?-260) là tướng nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ Trần Thái có tên tự là **Huyền Bá** (玄伯), là con đại thần
**Tôn Lễ** (chữ Hán: 孙礼; bính âm: Sun Li; ?-250, sinh tại Hà Bắc) là tướng nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Sự nghiệp Tôn Lễ có tên tự
**Gia Cát Lượng** (; 181 – 234), biểu tự **Khổng Minh** (孔明), hiệu **Ngọa Long** (臥龍), là Thừa tướng, công thần khai quốc, nhà chính trị, nhà ngoại giao, chỉ huy quân sự, nhà giáo
**Chiến tranh Thục – Ngụy** **(247–262)**, hay còn biết đến với tên gọi **Cửu phạt Trung Nguyên**, là một loạt các chiến dịch quân sự có quy mô vừa và nhỏ diễn ra chủ yếu
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa **Thời Tam Quốc** là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc với nhiều nhân vật trong lịch sử, nó cũng là thời đại tạo nguồn cảm hứng cho
**Hạ Hầu Bá** (; ? – 259?), tự **Trọng Quyền** (仲權), là tướng lĩnh Tào Ngụy và Quý Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Phục vụ Tào Ngụy Hạ Hầu Bá
Tiểu thuyết "Tam quốc diễn nghĩa" về cơ bản dựa trên chính sử "Tam quốc chí" tiểu thuyết hóa. Các học giả đều thống nhất nhận định rằng "Tam quốc diễn nghĩa" sử dụng thủ
**Ngụy Diên** (chữ Hán: 魏延; 177-234), tên tự là **Văn Trường** (文長), là tướng quân nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa. Trong chiến dịch Bắc Phạt của Gia Cát Lượng
**Tào Ngụy** (曹魏) là một trong 3 quốc gia thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa, kinh đô ở Lạc Dương. Tào Ngụy do Tào Tháo xây dựng tiền đề nhưng con trai Tào
khung **Hỏa Phụng Liêu Nguyên** (chữ Hán: 火鳳燎原) là một bộ truyện tranh mạn họa của tác giả Trần Mưu (Chen Mou) lấy bối cảnh thời Đông Hán mạt tới Tam quốc. Bộ truyện đã
**_Tam quốc chí_** (giản thể: 三国志; phồn thể: 三國志; Wade-Giles: _Sanguo Chih_; bính âm: _Sānguó Zhì_), là một sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại Tam Quốc của Trung Quốc từ
**Đặng Ngải** (chữ Hán: 鄧艾; 197 - 264), tự **Sĩ Tái** (士载), là một đại tướng trứ danh của Tào Ngụy dưới thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong những
**Trương Cáp** (chữ Hán: 张郃; 166-231), tự là **Tuấn Nghệ** (儁乂), là tướng lĩnh nhà Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ Trương Cáp bắt đầu tham gia chiến trận
**Tào Ngụy Minh Đế** (chữ Hán: 曹魏明帝; 204 - 22 tháng 1, 239), tên thật **Tào Duệ** (), tự **Nguyên Trọng** (元仲), là vị Hoàng đế thứ hai của triều Tào Ngụy trong lịch sử
**Khương Duy** (姜維, bính âm: Jiang Wei, 202–264), là một đại tướng của nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Nguyên là một quan nhỏ của Tào Ngụy, ông bất đắc
Tại Thế vận hội Mùa hè 1988 diễn ra ở Seoul, Hàn Quốc, đoàn Việt Nam tham gia với 16 thành viên (trong đó có 9 VĐV) tranh tài ở 6 môn thi: điền kinh,
**Sự biến lăng Cao Bình** (chữ Hán 高平陵之变 _Cao Bình lăng chi biến_) còn gọi là **Chính biến lăng Cao Bình**, **Biến cố lăng Cao Bình** hoặc **Sự biến năm Chính Thủy**, phát sinh ở
**Huyện tự trị dân tộc Miêu Ma Dương** (chữ Hán giản thể: 麻阳苗族自治县, âm Hán Việt: _Ma Dương Miêu tộc Tự trị huyện_) là một huyện tự trị thuộc địa cấp thị Hoài Hóa, tỉnh
**Vương Lãng** (chữ Hán: 王朗, bính âm: Wang Lang; ?-228) tự là **Cảnh Hưng** là tướng cuối thời Đông Hán, công thần khai quốc nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
**Đỗ Tập** (chữ Hán: 杜袭), tự **Tử Tự**, người huyện Định Lăng, quận Dĩnh Xuyên , quan viên cuối đời Đông Hán, đầu đời Tào Ngụy thời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Ngu Hủ** () là tướng và là quan nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công giữ biên giới phía tây Trung Quốc đầu thế kỷ 2. ## Thời trẻ Ngu Hủ
**Lịch sử quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan** giới thiệu thay đổi về lịch sử quan hệ giữa hai bờ eo biển từ xưa đến nay. Các ghi chép sớm nhất trong lịch
**Trương Bao** (, 192-229) là con trai cả của Trương Phi, danh tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Trương Bao quê ở quận Trác, U Châu,
**Triệu Vân** (chữ Hán: 趙雲, bính âm: Zhào Yún; (169- 229), tự Tử Long,là danh tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là công thần
**Năm 255** là một năm trong lịch Julius. ## Sự kiện ## Sinh ## Mất * Quách Hoài * Mã Đại * Tư Mã Sư
**Năm 187** là một năm trong lịch Julius. ## Sự kiện ## Sinh * Quách Hoài * Mã Lương * Tào Phi ## Mất
**Trần Thức** (; ? - ?) là tướng lĩnh nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Không rõ quê quán, hành trạng ban đầu của Trần Thức, chỉ
**Chiến tranh Thục – Ngụy (228–234)**, hay còn gọi là **Gia Cát Lượng Bắc phạt** hoặc **Lục xuất Kỳ Sơn** (chữ Hán: 六出祁山; bính âm: Lìuchū Qíshān), là một loạt chiến dịch quân sự của
**Formosa thuộc Hà Lan** đề cập đến thời kỳ chính quyền thuộc địa Hà Lan tồn tại ở Formosa (nay gọi là Đài Loan) từ năm 1624 đến 1662. Trong bối cảnh thời đại khám