✨Paul Doumer

Paul Doumer

Paul Doumer, tên gọi đầy đủ Joseph Athanase Doumer (sinh ngày 22 tháng 3 năm 1857 tại Aurillac, Cantal, mất ngày 7 tháng 5 năm 1932 tại Paris) là một chính trị gia người Pháp. Ông là Toàn quyền Đông Dương từ năm 1897 đến năm 1902 và Tổng thống Pháp từ năm 1931 đến năm 1932.

Tiểu sử

Paul Doumer xuất thân từ một gia đình lao động, bố làm công nhân xe lửa. Năm 12 tuổi, ông đã phải đi kiếm sống, làm thợ khắc, sau đó vào học trường dạy nghề. Chàng thanh niên Paul là người có nghị lực. Năm 20 tuổi, ông đỗ bằng cử nhân toán học, năm sau lấy tiếp bằng cử nhân luật, trở thành chuyên gia tài chính. Sau một thời gian ngắn dạy học, ông ra làm báo, gia nhập Đảng cấp tiến Pháp và được bầu làm Nghị sĩ của đảng này. Từ đó bước vào chính trường.

Từ người viết báo trở thành Nghị sĩ nhờ quan điểm chính trị cấp tiến, Paul Doumer bắt đầu có quan hệ chặt chẽ với các tập đoàn tài chính - công nghiệp, ông từng là thành viên Hội đồng quản trị Tổng công ty Điện lực CGE. Tham gia chính phủ, ông chuyển lập trường sang phái hữu, tuy trên danh nghĩa không rời bỏ Đảng cấp tiến. Năm 1895, làm Bộ trưởng tài chính, Paul Doumer ban hành thuế thu nhập. Từ những quan hệ chằng chịt nơi hậu trường, ông rời chính phủ sang Đông Dương làm Toàn quyền. Dưới thời cai trị của ông, Đông Dương lần đầu tiên trở thành thuộc địa tạo ra lợi nhuận cung ứng cho Pháp chứ không cần rót tiền sang đầu tư, nhưng cái giá phải trả chính là sự đau khổ của người Việt Nam, khi mà Doumer đã tăng cường đánh thuế, bóc lột triệt để các nguồn lực ở thuộc địa để lấy đó làm lợi nhuận cho chính quốc Pháp

Hoàn cảnh cá nhân

Khởi nguyên khiêm tốn và khó xác thực

Joseph Athanase Doumer sinh ngày 22 tháng 3 năm 1857 tại Aurillac, thuộc Cantal. Khi khai thủy sự nghiệp sinh nhai, Doumer sử dụng danh tự của tổ phụ là Paul (thành viên trung thành của Đảng Cộng hoà) nhiều hơn tên thực của mình.

Ông rửa tội tại nhà thờ Công giáo Notre-Dame-aux-Neiges d'Aurillac, ông có hai chị gái: Renée (sinh năm 1854) và Thérèse (sinh năm 1855). Lương thấp của cha khiến điều kiện sống của gia đình trở nên khó khăn và ông sống trong căn hộ cho công nhân

Nguồn gốc và xuất thân gia đình của ông rất khiêm tốn. Giấy khai sinh cho biết ông là con của Jean Doumer-công tác trong ngành đường sắt, và Victorine David-thất nghiệp.

Trong cuốn sách viết về tiểu sử Paul Doumer vào năm 2013, Amaury Lorin cho rằng Jean Doumer, khi Paul được sinh ra, là một nhân viên lưu động của ngành đường sắt d'Orléans: với tư cách là người lắp đặt đường ray, ông tham gia xây dựng tuyến đường ray Paris-Aurillac. Vào tháng 11 năm 1857, nhiệm vụ của Jean Doumer đã hoàn thành, gia đình rời Aurillac đến Paris, giống như nhiều gia đình lao động khác ở Cantal. Gia đình định cư ở Thị trấn Montmartre. Amaury Lorin chỉ ra rằng một tháng sau khi đến vùng Paris, vào tháng 12 năm 1857, Jean Doumer tử vong chưa rõ lý do; các nguồn khác đoán đó là do một sự cố công nghiệp. Từ đó trở đi, để đảm bảo sự sinh tồn của gia đình, Victorine Doumer khai thủy đảm nhiệm nghề người giúp việc và thợ may, và sẽ chuyển đến Belleville.

Vào những năm 2010, Jean-Michel Miel và học giả phả hệ Béatrice Rousseau thực thi nghiên cứu và đưa ra một kết quả bất đồng với quan niệm cũ. Phụ thân trên thực tế của Paul Doumer là Jean Doumerg (xuất sinh năm 1821 tại Camburat, thuộc Lot), hướng dẫn viên du lịch ở Castelnau (Lot) cho đến khi ông từ nhiệm năm 1854, sau đó hợp tác làm ăn và liên hệ với các khởi nghiệp gia trong lĩnh vực công trình đường bộ địa phương Lot (Rót). Kết quả nghiên cứu phản đối những thông tin xưa nay trên báo chí, phụ thân không tử vong mà bỏ rơi gia nhân, điều này khiến Bik-tô-rin Đe-bid (Victorine David) chuyển đến Paris cùng ba hài tử. Chan Đu-ma-gu (Jean Doumerg) tiếp tục công tác làm con đường địa phương cho đến năm 1858, và sau đó di cư đến Paris, nơi ông là một nhà khảo sát số lượng. Toà án phán quyết vắng mặt ông vào năm 1873 vì tham gia Công xã. Trở về thủ đô sau khi đại xá, ông tử vong tại quận 17 (Paris) vào năm 1893

Paul Doumer tiến hành tìm hiểu về tổ tiên của mình vào năm 1877 và đặt giả thiết Jean Doumerg mới là cha mình. Trong sự nghiệp sinh nhai, ông vẫn làm người ta mơ hồ về khởi nguyên của mình do sự trung thành với phụ thân Doumerg.

Thời đi học và có chỗ đứng trong xã hội

right|Đài lưu niệm ở Học viện Roland Dorgelès (quận 18, Paris).|thế=|295x295px Paul Doumer học trường tiểu học dành cho nam sinh trên phố Ramey, nằm ở Quận 18, Paris. Ông ta không được nhận học bổng, chỉ có khoảng 4.000 nhân tài sau đó đủ tư cách nhận ân huệ. Là một trong những học sinh giỏi nhất ở quận Montmartre, ông nhận chứng chỉ học tập sơ đẳng (CHS) vào năm 1870.

Năm mười hai tuổi, do tình hình tài chính của gia đình, anh phải từ bỏ việc học để học việc; sau đó ông là một trong những thiếu niên Pháp hiếm hoi có ân huệ từ loại học này. Trong sáu năm, ông ta làm nghề chuyển phát nhanh, sau đó là một công nhân điêu khắc trong một nhà máy huy chương ở Paris. Song song, anh truy cầu các khoá học nghiên cứu tự do tại trường giáo dục thường xuyên tại Trường Kỹ nghệ Quốc gia Pháp. Ông đặc biệt hứng thú đến số học, hóa học, tiếng Latin và tiếng Hy Lạp. Năm 1876, ông có tú tài khoa học với nhiều lời khen ngời.

Làm Toàn quyền Đông Dương

Paul Doumer giữ chức Toàn quyền Đông Dương từ 1897 đến 1902. Dưới thời Toàn quyền Paul Doumer, chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam bước sang một bước ngoặt mới.

Paul Doumer là một người mang lại nhiều thay đổi lớn trong chính sách thuộc địa của Pháp. Từ lúc nhậm chức, ông đã đặt guồng máy chính quyền và các cơ sở khai thác kiên cố cho đến năm 1945. Ông chủ trương biến chế độ bảo hộ thành chế độ thực trị, chấm dứt chủ quyền và thống nhất của Việt Nam, chia cắt ba miền Việt Nam thành Bắc - Trung - Nam Kỳ để dễ cai trị. Doumer tập trung quyền hành vào chức vụ Toàn quyền, để triều đình nhà Nguyễn đóng cửa Nha Kinh lược sứ Bắc kỳ, giao chức Kinh lược sứ, một chức quan trong triều đình Huế, cho Thống sứ Bắc kỳ lúc bấy giờ là Fourès.

Ông tổ chức khai thác triệt để các tài nguyên của các nước trong Liên hiệp Đông Pháp, biến Đông Dương thành một thị trường cho kỹ nghệ và thương mại của thực dân Pháp, và cùng lúc thành lập nơi đây một tiền đồn kinh tế và quân sự vững chắc của thực dân Pháp tại toàn cõi Viễn Đông.

Doumer chính là người ủng hộ mạnh mẽ cho việc xây tuyến đường sắt xuyên Đông Dương và nối với tỉnh Vân nam của Trung quốc. Ông sốt sắng tới mức báo chí Pháp mỉa mai gọi Doumer và thuộc cấp là "Những người theo chủ nghĩa đường sắt". Toàn quyền Doumer đích thân chỉ đạo quy hoạch, thiết kế và thường xuyên đôn đốc xúc tiến công trình đầy khó khăn kéo dài nhiều năm, tới 1937 mới hoàn thành. Paul Doumer cho mở mang cảng Hải Phòng làm đầu cuối của tuyến đường sắt nối vùng cao Tây Nam Trung Quốc với duyên hải Bắc Bộ Việt Nam.

Ông cho lập một số nhà máy điện. Dưới nhiệm kỳ ông, Hà Nội trở thành thành phố đầu tiên ở Đông Dương có phố xá được chiếu sáng bằng ánh điện (cho dù tới năm 1954, công suất của Nhà máy điện Yên Phụ cũng chưa tới 5000KW). Tên ông được đặt cho một cây cầu ở Hà Nội, ông là người chính thức quyết định xây dựng cầu này, về sau đổi tên là cầu Long Biên. Cầu Long Biên là một công trình lớn (trước 1945 là cầu dài nhất cõi Đông Dương), tạo thêm một nét đặc trưng cho Hà Nội. Ông khuyến khích nhập giống cây cao su, lập nên những đồn điền lớn do người Pháp làm chủ, tạo nguồn hàng xuất khẩu.

Ông nhanh chóng đồng tình kiến nghị của bác sĩ Yersin, người khám phá ra cao nguyên Langbian, lập thành phố Đà Lạt.

Nhận định

Nhìn chung, dưới thời Doumer, hệ thống hạ tầng cơ sở tại Đông Dương được kiến thiết rất nhiều, nhưng cái giá phải trả là người dân Việt đã phải chịu sưu thuế rất nặng để phục dịch và chu cấp cho việc này. Năm 1897, chỉ trong vài tuần lễ sau khi Doumer nắm quyền, một cơn mưa các loại thuế ập xuống người Việt Nam: Tăng thuế thân và thuế địa ốc, thuế đăng ký sắc phong của các quan, thuế diêm, thuế quế, thuế giấy có đóng dấu, thuế muối, thuế rượu, thuế đi thuyền trên sông, giấy phép đốn gỗ, thuế thuốc lào, thuế cau, thuế củi, thậm chí cả thuế rơm thuế rạ để lợp những căn lều tranh... Sự đau khổ, khốn cùng của người Việt ngày càng trầm trọng thêm.

Dưới thời Doumer, 3 sắc thuế được đẩy mạnh hết mức là thuốc phiện, muối và rượu. Của cải bòn rút từ người dân qua 3 sắc thuế ấy đóng vào ngân sách thuộc địa tăng từ 20 triệu đồng Đông Dương năm 1899 lên 33 triệu năm 1902, rồi vọt lên 42 triệu năm 1911. Ở Trung Kỳ, thuế thân và thuế ruộng đất trước ngày Doumer tới Việt Nam nhậm chức mới là 83.000 đồng, sau đó vọt lên 2 triệu năm 1899 - năm thứ 2 nhiệm kỳ toàn quyền. Ở Bắc Kỳ, 2 sắc thuế ấy cũng tăng nhanh, đạt gần 5 triệu năm 1907. Trong khi đó, mọi loại thuế má người Pháp làm việc tại Đông Dương phải đóng góp vào ngân sách vỏn vẹn có 9.000 đồng Pháp giành độc quyền buôn bán 3 mặt hàng quan trọng nhất là gạo, muối và rượu. Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét: "Nói đến các món độc quyền, người ta có thể hình dung Đông Dương như một con nai béo mập bị trói chặt và đương hấp hối dưới những cái mỏ quặp của một bầy diều hâu rỉa rói mãi không thấy no".

Thuốc phiện là mặt hàng được Pháp công khai buôn bán, khuyến khích người Việt sử dụng chứ không bị cấm như ở chính quốc. Lợi nhuận từ thuốc phiện đã đóng góp tới 25% vào ngân sách của Pháp ở Đông Dương. Tổng ngân sách năm 1905 là 32 triệu đồng Đông Dương, trong số này nguồn thu từ độc quyền bán thuốc phiện là 8,1 triệu. Tính đến năm 1900 thì lợi nhuận Pháp thu được từ thuốc phiện đạt hơn phân nửa số tiền thu nhập của toàn Liên bang Đông Dương.

Về thuế ruộng đất (thuế điền thổ), từ năm 1897, Toàn quyền Đông Dương đã nhiều lần cho điều chỉnh lại theo 4 hạng điền, 6 hạng thổ (đất). Mức thuế chủ yếu là tăng lên, kèm với những khoản phụ thu, nhưng diện tích làm căn cứ tính mẫu, sào lại điều chỉnh giảm xuống. Ví dụ: Theo quy định từ thời Tự Đức (1847-1883), mỗi mẫu Việt nam là 4.970 m2. Năm 1897, ở Bắc kỳ, Pháp quy định mỗi mẫu chỉ có 3.600 m2, vì vậy thuế phải nộp thực tế tăng lên, có khi đến 2-3 lần. Thực dân Pháp và giáo hội Thiên Chúa giáo cũng tăng cường chiếm hữu đất đai để khai thác nông nghiệp. Ở Bắc Kì, tính đến năm 1902, người Pháp đã chiếm hữu 182.000 héc ta đất trong đó có 50.000 héc ta ở các vùng trù phú nhất.

Quân Pháp dưới quyền P. Doumer cũng duy trì các vụ trấn áp, hành hình những người Việt chống đối. Trong bức thư gửi về Pháp ngày ngày 1 tháng 1 năm 1898, 1 viên đại úy viết: "Vào hôm sau ngày xảy ra vụ manh động, (quân Pháp) cho chặt và bêu 54 cái đầu. Trong vài ngày tiếp theo, người ta đã hành hình 200 người An Nam, trong số đó có cả những đứa nhóc 14 tuổi, với cái tội là đã làm rối giấc ngủ của những vị quan cai trị của chúng ta... Tất cả những điều này thật đáng nôn mửa"

Việc Doumer năng nổ thúc đẩy công việc xây dựng tại thuộc địa còn nhằm mưu lợi cho cá nhân ông ta. Doumer từng là thành viên HĐQT Tổng Công ty Điện lực Pháp CGE, ông được sự ủng hộ của nhiều tập đoàn công nghiệp và giao thông vận tải, trong số này có Tập đoàn Eiffel cùng nhiều công ty nổi tiếng khác. Việc Doumer quan tâm đến việc mở đường sắt, làm cầu sắt, xây nhà máy điện tại Đông Dương đã giúp kiếm món lợi lớn cho các công ty hậu thuẫn ông ta, rồi đến lượt các ông chủ tư bản Pháp này sẽ lại hậu thuẫn Doumer tăng tiến trên con đường chính trị của ông ta.

Còn nếu nhìn từ góc độ về những đau khổ của người Việt thì sẽ thấy chính sách điều hành của P. Doumer khi xây dựng hệ thống giao thông thực chất chỉ nhằm phục vụ quá trình khai thác thuộc địa của Pháp thuận lợi hơn; việc mở mang các khu đô thị cũng là để thiết lập bộ máy cai trị của Pháp; hoàn toàn không vì lợi ích cho người bản xứ. Tiêu biểu như cầu Long Biên, những người ca tụng P. Doumer nào có biết đến bao nhiêu người Việt Nam đã phải bỏ mạng khi xây dựng cây cầu, như bài vè lưu truyền trong dân gian: :Lập mưu xây được cây cầu - Chế ra cái chụp để mà bơm lên :Bơm hết nước đến bùn đen - Người chết như rạ, phải len mình vào :Vỡ bơm nước lại chảy vào - Chết thì mặc chết, ai nào biết không"

Trên thực tế, P. Doumer đã tạo dựng cơ sở để khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, nước Việt Nam nghèo đói phải oằn mình đóng góp của cải và hàng vạn sinh mạng cho chính sách "rồng Nam phun bạc, đánh đổ Đức tặc, phục vụ chiến thắng của mẫu quốc Pháp"

Trong Bản án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã lên án sự tham lam và tàn nhẫn với người dân thuộc địa của Doumer bằng sự châm biếm sâu cay: :Trong cái kho đầy ắp những hình phạt để giáng vào đầu người bản xứ, có những khoản phạt tiền từ 200 đến 3.000 đồng. Không phải ông Đume không biết rằng người An Nam không bao giờ đóng nổi những khoản tiền to đến thế. Nhưng ông ta cứ muốn xoay tiền bằng bất cứ giá nào; nên con người khôn ngoan ấy đã dự kiến rằng có thể bắt làng xã phải chịu trách nhiệm (Điều 4)... Làng nào không biết ngăn ngừa một tội phạm, thì phải chịu trách nhiệm về tội phạm ấy. Cái điều 4 này quả là một mánh khoé ác nghiệt, bởi vì chỉ cần những tay chân của bọn chủ bao thầu thuế - những tay chân đó được thuê tiền để phát giác càng nhiều vụ vi phạm càng hay - khai rằng làng sở tại chẳng hề làm gì để ngăn chặn vụ vi phạm, thế là đủ (để cả làng phải chịu phạt tiền).

Các hoạt động chính trị khác

Gia đình Doumer được ngợi ca về lòng yêu nước. Ông có năm con trai thì bốn người chiến đấu và chết trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Bản thân Paul Doumer là Quốc vụ khanh, thành viên Hội đồng Chiến tranh do đích thân Tổng thống Pháp chủ trì. Ông làm chủ tịch Ủy ban kinh tế của Hội đồng này.

Tổng thống

Ông trúng cử chức Tổng thống Cộng hòa Pháp ngày 13 tháng 5 năm 1931, nhậm chức ngày 13 tháng 6 năm 1931. Sau đó chưa đầy 1 năm, Doumer bị một kẻ lưu vong người Nga bị rối loạn thần kinh là Paul Gorgulov ám sát vào ngày 6 tháng 5 năm 1932 tại Paris. Ông chết bởi vết thương vào ngày hôm sau, lúc 4 giờ 37 sáng 7 tháng 5 năm 1932.

Sự nghiệp chính trị

  • 1888-1891: Nghị sĩ Aisne (khu vực bầu cử Laon, Đảng cấp tiến)
  • 1891-1895: Nghị sĩ Yonne (khu vực bầu cử Auxerre)
  • 1902-1910: Nghị sĩ Aisne (khu vực bầu cử Laon)
  • 1912-1931: Thượng nghị sĩ Corse Chức vụ
  • 1895-1896: Bộ trưởng bộ Tài chính *1897-1902: Toàn quyền Đông Dương
  • 1905-1906: Chủ tịch Hạ viện
  • 1921-1922: Bộ trưởng bộ Tài chính
  • 1925-1926: Bộ trưởng bộ Tài chính
  • 1927-1931: Chủ tịch Thượng nghị viện (Sénat)
  • 1931-1932: Tổng thống Cộng hòa Pháp
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Paul Doumer**, tên gọi đầy đủ **Joseph Athanase Doumer** (sinh ngày 22 tháng 3 năm 1857 tại Aurillac, Cantal, mất ngày 7 tháng 5 năm 1932 tại Paris) là một chính trị gia người Pháp.
Khi người ta nhận ra rằng thiếu hẳn mảng tư liệu về tiểu sử của Paul Doumer và kéo theo đó là sự thiếu hiểu biết về một nhân vật, dù gì đi nữa cũng
Khi người ta nhận ra rằng thiếu hẳn mảng tư liệu về tiểu sử của Paul Doumer và kéo theo đó là sự thiếu hiểu biết về một nhân vật, dù gì đi nữa cũng
Khi người ta nhận ra rằng thiếu hẳn mảng tư liệu về tiểu sử của Paul Doumer và kéo theo đó là sự thiếu hiểu biết về một nhân vật, dù gì đi nữa cũng
Khi người ta nhận ra rằng thiếu hẳn mảng tư liệu về tiểu sử của Paul Doumer và kéo theo đó là sự thiếu hiểu biết về một nhân vật, dù gì đi nữa cũng
Khi người ta nhận ra rằng thiếu hẳn mảng tư liệu về tiểu sử của Paul Doumer và kéo theo đó là sự thiếu hiểu biết về một nhân vật, dù gì đi nữa cũng
Khi người ta nhận ra rằng thiếu hẳn mảng tư liệu về tiểu sử của Paul Doumer và kéo theo đó là sự thiếu hiểu biết về một nhân vật, dù gì đi nữa cũng
Khi người ta nhận ra rằng thiếu hẳn mảng tư liệu về tiểu sử của Paul Doumer và kéo theo đó là sự thiếu hiểu biết về một nhân vật, dù gì đi nữa cũng
**Jean-Baptiste-Paul Beau** hay còn gọi **Paul Beau** (đọc là **Giăng Báp-tít-xtơ Pôn Bô**) (sinh 26 tháng 1 năm 1857 tại Bordeaux - mất 14 tháng 2 năm 1926 tại Paris) là một nhà ngoại giao,
**Thành phố Đà Lạt** được ghi nhận hình thành từ năm 1893, thời điểm bác sĩ Alexandre Yersin lần đầu tiên đặt chân đến cao nguyên Lâm Viên. Mặc dù vậy, trước thời kỳ này
nhỏ|232x232px|Biểu tượng Toàn quyền Đông Dương thumb|Dinh Toàn quyền hay [[Dinh Norodom vừa xây dựng xong tại Sài Gòn, hình chụp khoảng năm 1875]] **Đông Dương tổng thống toàn quyền đại thần** (chữ Hán: 東洋總統全權大臣,
nhỏ|Tháp mộ Trần Bá Lộc nằm trong khu đất Thánh tại thị trấn Cái Bè **Trần Bá Lộc** (, 1839-1899) là một cộng sự đắc lực của thực dân Pháp trong việc đàn áp nhiều
**Đà Lạt** là thành phố tỉnh lỵ cũ trực thuộc tỉnh Lâm Đồng nằm trên cao nguyên Lâm Viên, thuộc vùng Tây Nguyên, Việt Nam. Từ xa xưa, vùng đất này vốn là địa bàn
**Cầu Long Biên** (tên cũ là **cầu (Pont de) Paul Doumer**) là cây cầu thuộc đoạn đường quốc lộ 1 cũ bắc qua sông Hồng kết nối phường Hồng Hà với phường Bồ Đề của
**Đà Lạt** là phường may mắn sở hữu nhiều di sản kiến trúc giá trị, ví dụ như bảo tàng lưu trữ kiến trúc thuộc địa thế kỷ XX,... Từ một đô thị nghỉ dưỡng
**Trường Y khoa Đông Dương** (tiếng Pháp: _École de Médecine de l'Indochine_) là một trường đại học y khoa công lập ở Liên bang Đông Dương do chính quyền đô hộ Pháp thành lập vào
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Lịch sử Đà Lạt** khởi đầu bằng những chuyến thám hiểm vùng cao nguyên Lâm Viên cuối thế kỷ 19, đặc biệt đánh dấu bởi chuyến thám hiểm của bác sĩ Alexandre Yersin vào giữa
**Cuộc đại thảm sát chuột ở Hà Nội** (Chữ Nôm: 局慘刹𤝞於河內; tiếng Pháp: _Massacre des rats de Hanoï_) diễn ra vào năm 1902, ở Hà Nội khi chính quyền Pháp cố gắng kiểm soát số
**Alexandre Émile John Yersin** (22 tháng 9 năm 1863 – 1 tháng 3 năm 1943) là một bác sĩ, nhà vi khuẩn học và nhà thám hiểm người Pháp gốc Thuỵ Sĩ. Ông nổi tiếng
nhỏ|Bạch Dinh được chụp từ flycam trên cao để nhìn tổng thể. Bên cạnh là [[Bảo tàng Thành phố Vũng Tàu.]] nhỏ|phải|Mặt trước Bạch Dinh **Bạch Dinh** (tiếng Pháp: _Villa Blanche_) là một dinh thự
**Nguyễn Văn Tuyên** (chữ Hán: 阮文瑄, 1834 - 1902), tự **Trọng Hiệp** (仲合), hiệu **Kim Giang** (金江), biệt hiệu **Quế Bình Tử** (桂坪子) là một quan đại thần triều Nguyễn, trải bảy đời vua từ
nhỏ|Tỉnh lộ 943 đoạn đi qua Thị trấn [[Phú Hòa, Thoại Sơn, An Giang]] nhỏ|Hệ thống giao thông Việt Nam 2000 Các tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không trong **mạng lưới giao thông
**Nguyễn Thân** (chữ Hán: 阮紳, 1854–1914), biểu tự **Thạch Trì** (石池), là võ quan nhà Nguyễn dưới triều vua Đồng Khánh, từng phối hợp với thực dân Pháp đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong
nhỏ|Bệnh viện Việt Đức ở đường Phủ Doãn **Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức** (Vietduc University Hospital) là một bệnh viện ngoại khoa có trụ sở tại số 40 phố Tràng Thi, phường Hàng Bông,
Cảnh quan từ núi Bà Nà Cảnh quan từ khách sạn Morin **Bà Nà** là khu bảo tồn thiên nhiên đồng thời cũng là quần thể du lịch nghỉ dưỡng toạ lạc tại khu vực
nhỏ|Tổng đốc Phương **Tổng Đốc Phương**, tên thật là **Đỗ Hữu Phương** (杜有芳, 1841–1914), là một cộng sự đắc lực của thực dân Pháp. Trong thời kỳ đầu quân Pháp đến chiếm đóng Việt Nam,
**Vũng Tàu** là một thành phố cũ thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Đây là trung tâm kinh tế, tài chính, văn hóa, du lịch, và là một
**Phủ Chủ tịch** tại Hà Nội, Việt Nam là nơi ở và làm việc của Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời là trụ sở
**Quảng Trị** là một thị xã nằm ở phía nam tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Hiện nay, thị xã Quảng Trị không phải là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, thị xã lại
**Quảng Trị** là tỉnh ven biển gần cực nam của vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, tỉnh Quảng Trị mới là sáp
phải|nhỏ|Viện Bảo tàng Mỹ thuật Lyon (Musée des beaux-arts de Lyon), một trong mấy nơi còn lưu trữ tác phẩm của Victor Tardieu phải|nhỏ|Toà thị chính [[Montrouge nơi Victor Tardieu thực hiện bức tranh vẽ
nhỏ|Trang nhất số đầu tiên của _Nông cổ mín đàm_. **_Nông cổ mín đàm_** (chữ Hán: ; nghĩa là "uống trà bàn chuyện làm ruộng và đi buôn"), cũng có tên tiếng Pháp là **_Causeries
**Tàu điện Hà Nội** hay **Xe điện Hà Nội** (tiếng Pháp: _tramway de Hanoï_) là hệ thống xe điện cũ tại Hà Nội. Đây là hệ thống tàu điện thứ hai tại Việt Nam (sau
**Hệ đo lường cổ Việt Nam** bao gồm chủ yếu các đơn vị đo số thập phân thường được sử dụng trong phong tục tập quán Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam chủ yếu sử
Ngày **2 tháng 6** là ngày thứ 153 (154 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 212 ngày trong năm. ## Sự kiện *260 – Hoàng đế Tào Mao của Ngụy tiến hành binh biến
Ngày **6 tháng 5** là ngày thứ 124 (125 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 239 ngày trong năm. ## Sự kiện *1682 – Quốc vương Louis XIV của Pháp chuyển triều đình của
**Phú Thọ** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, Phú Thọ có diện tích là 9.361 km² (xếp thứ 15); dân số
**Trượng** là một đơn vị đo chiều dài cổ của Việt Nam và Trung Hoa. Nó nằm trong các đơn vị đo độ dài cổ theo hệ thập phân dựa trên một cây thước cơ
Giáo sư **Cao Xuân Huy** (1900 - 1983) là một nhà nghiên cứu chuyên về lịch sử tư tưởng triết học phương Đông, từng được gọi là "nhà đạo học" ngay từ thuở mới khoảng
**Cao Xuân Dục** (chữ Hán: 高春育; tự là **Tử Phát**, hiệu **Long Cương Cổ Hoan Đông Cao**; 1843–1923) là một quan đại thần của triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam, từng làm tổng đốc, thượng
Cầu Việt Trì nhìn từ trên cao. **Cầu Việt Trì** xây dựng năm 1901 dưới thời toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Cây cầu đã bị đánh sập ngày 9/4/1942. Hoà bình lập lại, năm
**Tây Ninh** là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Tây Ninh nằm ở vị trí cầu nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Phnôm Pênh, vương quốc Campuchia và
thumb|Hang Đầu Gỗ **Hang Đầu Gỗ** là hang trên _hòn Đầu Gỗ_ trong vịnh Hạ Long, thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Hang thuộc dạng karst trong khối núi đá vôi. Hang
Xứ Đông Dương Tái Bản Bổ Sung 2018 Xứ Đông Dươnglà những hồi ức sống động của một người từng cai quản cả Đông Dương. Ông từng giữ những chức vụ quan trọng như Bộ
**Georges Jean Raymond Pompidou** ( , ; 5 tháng 7 năm 1911 – 2 tháng 4 năm 1974) là nhà binh và chính trị gia người Pháp. Ông từng là Thủ tướng Pháp từ năm
**Phan Văn Hùm** (9 tháng 4 năm 1902 - năm 1946), bút danh **Phù Dao**, là một nhà báo, nhà văn, nhà cách mạng, và là lãnh tụ phong trào Cộng sản Đệ Tứ tại
Logo của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam ** Đường sắt Việt Nam** là một trong những ngành công nghiệp lâu đời của Việt Nam. Ngành Đường sắt Việt Nam ra đời năm 1881
**Quảng trường Trocadéro** (_Place du Trocadéro-et-du-11-Novembre_) nằm ở phía tây thành phố Paris, thuộc Quận 16. Nằm trong khu phố sang trọng của thành phố, bên cạnh quảng trường Trocadéro là Palais de Chaillot với
::_Bài này viết về một loại vũ khí. Xem thêm các bài nghĩa khác ở cung (định hướng)_ Cung chiến thời Nguyễn **Cung** là một loại vũ khí tầm xa cổ xưa và hiệu quả.