nhỏ|232x232px|Biểu tượng Toàn quyền Đông Dương
thumb|Dinh Toàn quyền hay [[Dinh Norodom vừa xây dựng xong tại Sài Gòn, hình chụp khoảng năm 1875]]
Đông Dương tổng thống toàn quyền đại thần (chữ Hán: 東洋總統全權大臣, tiếng Pháp: Gouverneur-général de l'Indochine française), gọi tắt là toàn quyền Đông Dương, còn gọi là Đông Pháp tổng thống toàn quyền đại thần, gọi tắt là toàn quyền Đông Pháp, là chức vụ cao cấp của quan chức cai trị thuộc địa Pháp, đứng đầu trong Liên bang Đông Dương.
Sau Thế chiến thứ hai, khi quân Pháp đã tái kiểm soát được phần lớn Đông Dương, nhằm tránh khơi gợi lại thời kỳ thuộc địa, chức vụ Toàn quyền được thay thế bằng chức vụ thành Cao ủy Đông Dương hay Cao ủy Đông Pháp (tiếng Pháp: Haut-commissaire de France en Indochine). Cuối tháng 4 năm 1943, chức vụ này một lần nữa được thay đổi thành đến năm 1953 thì gọi là Tổng ủy Đông Dương (tiếng Pháp: Commissaires généraux en Indochine). Sau ngày 21 tháng 7 năm 1956, chức vụ này bị bãi bỏ theo tinh thần của Hiệp định Genève, 1954.
Bối cảnh lịch sử
Khi tiến hành xâm chiếm Nam kỳ, người Pháp tổ chức hệ thống cai trị qua hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, từ 1861 đến 1879, người Pháp thành lập Soái phủ Nam kỳ (Gouvernement des Amiraux) do các đô đốc của Hải quân Pháp đứng đầu, trông coi việc cai trị hành chính và binh bị. Bắt đầu năm 1879, người Pháp đặt chức vụ Thống đốc Nam Kỳ (Gouverneur-général de la Cochinchine) để cai trị mảnh đất thuộc địa này. Chức vụ thống đốc này trực thuộc bộ Thuộc địa và bộ Hải quân Pháp. Sau khi áp đặt chế độ bảo hộ, người Pháp đặt thêm chức vụ Khâm sứ Trung Kỳ (Résident supérieur d'Annam) và Thống sứ Bắc Kỳ (Résident supérieur du Tonkin). Hai người này trực thuộc bộ Ngoại giao Pháp.
Ngày 17 tháng 10 năm 1887, viên Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập Phủ Toàn quyền Đông Dương, còn gọi là Phủ Toàn quyền Đông Pháp (Gouvernement général de l'Indochine Française). Toàn quyền Đông Pháp là người có quyền hành cao nhất trong thể chế chính trị Pháp trên toàn cõi Bắc kỳ, Nam kỳ và Cao Miên. Riêng nước Đại Nam (phần đất Trung kỳ còn lại, đang chịu sự bảo hộ của thực dân Pháp) thì Hoàng đế nhà Nguyễn vẫn là người có quyền tối thượng, tất nhiên là trên danh nghĩa. Đứng đầu cả ba kỳ là: Thống đốc Nam kỳ (có sách gọi Thủ hiến), Khâm sứ Trung kỳ (có sách gọi Đại Trú sứ) và Thống sứ Bắc kỳ (có sách gọi Tổng Trú sứ), cả ba đều nằm dưới quyền giám sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền Đông Pháp, trực thuộc bộ Thuộc địa. Đến năm 1900 quyền kiểm soát của Toàn quyền Đông Pháp được mở rộng thêm, bao gồm cả Ai Lao và Quảng Châu Loan.
Quyền lực
nhỏ|phải| Một loại [[tem thư|tem dùng trong thời kỳ này]]
Toàn quyền là người đại diện cho chính phủ Pháp tại Đông Pháp, gồm các thuộc địa kể trên, và hành xử như một nguyên thủ, với các quyền hành và trách nhiệm như sau:
- Có quyền ban hành các sắc lệnh và đạo luật để cai trị, công bố thiết quân luật, giờ giới nghiêm,
- Có quyền ân xá các tội phạm bản xứ,
- Có quyền thiết lập ngân sách và phê chuẩn chi thu toàn cõi Đông Pháp,
- Có quyền sử dụng các lực lượng quân sự,
- Chịu trách nhiệm an ninh nội bộ và quốc phòng của khối Đông Pháp,
- Có quyền giải tán các hội đồng mọi cấp.
Chức vụ này có nhiệm kỳ năm (5) năm.
Dưới quyền điều khiển của Toàn quyền, ngoài Thống đốc, Khâm sứ và Thống sứ, còn có các cơ quan hành chính như sau:
Hội đồng Tư vấn (Conseil privé), Hội đồng Đề hình (Commissions criminelles), Bắc kỳ và Trung kỳ Nhân dân Đại biểu viện (Chambre des représentants du peuple) và một Đại hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương (Grand Conseil des Intérêts économiques et financiers de l'Indochine),
Các tổng nha chuyên môn Đông Dương (Services généraux de l'Indochine): Nha Học chính, Nha Tài chính, Nha Kinh tế vụ, Nha Canh nông, Nha Công chính, Nha Bưu chính, Nha Thương chính,
Quân đội,
Sở Hiến binh (Gendarmerie) và
Sở Mật thám Đông Dương (Direction des Affairs politiques et de la Sureté générale).
Chính sách cai trị của các Toàn quyền
Trên lý thuyết, các chính sách kinh tế, xã hội và quân sự người Pháp áp dụng tại Việt Nam phải dựa trên một chính sách chung dành cho tất cả các thuộc địa và đất bảo hộ, được hoạch định từ bộ Thuộc địa Pháp. Tuy nhiên trên thực tế các viên chức đại diện cho Pháp tại thuộc địa có toàn quyền hành xử, do đó chính sách cai trị thay đổi tùy thuộc vào khuynh hướng chính trị và tính tình của từng cá nhân.
Lúc bấy giờ trong các lý thuyết gia thuộc chính giới Pháp có hai khuynh hướng khác biệt về chính sách thuộc địa, một khuynh hướng chủ trương đồng hóa (assimilation), một chủ trương liên hiệp (association). Quan điểm của chính sách đồng hóa cho rằng các nước thuộc địa và bảo hộ không thể tồn tại và phát triển như những cơ thể độc lập, mà phải có sự hòa hợp thống nhất giữa mẫu quốc và thuộc địa trong tất cả các lãnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, quân sự và an ninh. Quan điểm của chính sách liên hiệp cho rằng việc đồng hóa là không tưởng, và trên thực tế nên cai trị thế nào để có lợi cho đôi bên, và cần tôn trọng các khác biệt giữa mẫu quốc và thuộc địa.
Danh sách các Toàn quyền, Cao ủy và Tổng ủy Đông Dương
Toàn quyền Đông Dương đầu tiên là Ernest Constans (1887–1888) và người cuối cùng là Jean Decoux (1940–1945). Bốn toàn quyền quan trọng là Paul Doumer, Paul Beau, Antony Klobukowski và Albert Sarraut.
Một vài Toàn quyền tiêu biểu
Bert, de Lanessan và Rousseau
Trong số các viên chức dưới chế độ Toàn quyền đầu tiên có Thống sứ Paul Bert (19 tháng 10 năm 1833 tại Auxerre - 11 tháng 11 năm 1886 tại Hà Nội) và Toàn quyền Jean Marie Antoine de Lanessan (1891–1894) cai trị theo đường lối liên hiệp. Hai ông sử dụng các bậc trí thức, nho sĩ, thành lập Hội đồng Hào mục gồm 40 người để cố vấn, đối xử ngọt ngào để mua chuộc cảm tình của người Việt, trao quyền hành cho các quan lại người Việt và không xâm phạm các lễ nghi tôn giáo và phong tục của người Việt. Các ông này sau đó bị gọi về Pháp vì đại đa số các viên chức bộ Thuộc địa và giáo hội Pháp không đồng ý với chính sách cai trị ôn hòa đó.
Paul Doumer
nhỏ|phải|328x328px|[[Cầu Long Biên ở thủ đô Hà Nội hồi đầu thế kỷ 20, lúc bấy giờ cái tên "cầu Doumer" được đặt tên theo Toàn quyền Paul Doumer.]]
Năm 1897, chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam bước sang một bước ngoặt khi Paul Doumer (22 tháng 3 năm 1857 – 7 tháng 5 năm 1932) giữ chức Toàn quyền. Paul Doumer là một chính khách ngoại hạng, sau trở thành Tổng thống Pháp, nhưng là một nhà cai trị độc tài mang lại nhiều thay đổi sâu sắc từ lúc ông ta nhậm chức. Ông thiết lập bộ máy nhà nước bảo hộ và xây dựng cơ sở hạ tầng kiên cố tại Việt Nam. Dưới thời Doumer, hệ thống hạ tầng cơ sở tại Đông Dương được kiến thiết rất nhiều, nhưng người dân Việt phải chịu sưu thuế rất nặng để phục dịch và chu cấp cho việc này. Paul Doumer cho xây cây cầu có cùng tên với ông, một trong những cây cầu lớn nhất thế giới lúc bấy giờ, hiện là cầu Long Biên.
Ông chủ trương biến chế độ bảo hộ thành chế độ thực trị, xóa bỏ chủ quyền và thống nhất của Việt Nam, mang đến phân hóa rõ rệt giữa ba miền. Ông tập trung quyền hành vào chức vụ Toàn quyền, ép triều đình nhà Nguyễn đóng cửa Nha Kinh lược sứ Bắc kỳ, giao chức Kinh lược sứ, một chức quan trong triều đình Huế, cho Thống sứ Bắc kỳ lúc bấy giờ là Augustin Fourès. Cùng chung số phận với các Toàn quyền cấp tiến Bert và de Lanessan, Beau bị gọi về về Pháp năm 1907.
Alexandre Varenne
Năm 1925, Alexandre Varenne sang nhậm chức, và là một Toàn quyền có ý thức nhân đạo. Một trong các hành động nhân đạo tiêu biểu đó là ông cho chích ngừa dịch tả, cải cách các trường học, ân xá cho Phan Bội Châu vừa bị tuyên án tử hình, lập các viện Dân biểu Bắc kỳ và Trung kỳ, mở rộng ngạch tương đương (cadres latérants) trong các công sở cho người Việt có bằng cấp tương đương có quyền nắm giữ các chức vụ tương đương với người Pháp, và thành lập Bình dân Nông phố Ngân quỹ để cho giúp nông dân. Chính sách của ông bị một số người Pháp phản đối dữ dội, và Varenne bị gọi về Pháp năm 1928.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|232x232px|Biểu tượng Toàn quyền Đông Dương thumb|Dinh Toàn quyền hay [[Dinh Norodom vừa xây dựng xong tại Sài Gòn, hình chụp khoảng năm 1875]] **Đông Dương tổng thống toàn quyền đại thần** (chữ Hán: 東洋總統全權大臣,
Dưới đây là **danh sách các Toàn quyền Đông Dương**, xếp theo trật tự thời gian đảm nhiệm chức vụ, tính từ tháng 11 năm 1887 đến tháng 8 năm 1945. __NOTOC__
Khi người ta nhận ra rằng thiếu hẳn mảng tư liệu về tiểu sử của Paul Doumer và kéo theo đó là sự thiếu hiểu biết về một nhân vật, dù gì đi nữa cũng
Khi người ta nhận ra rằng thiếu hẳn mảng tư liệu về tiểu sử của Paul Doumer và kéo theo đó là sự thiếu hiểu biết về một nhân vật, dù gì đi nữa cũng
Khi người ta nhận ra rằng thiếu hẳn mảng tư liệu về tiểu sử của Paul Doumer và kéo theo đó là sự thiếu hiểu biết về một nhân vật, dù gì đi nữa cũng
Khi người ta nhận ra rằng thiếu hẳn mảng tư liệu về tiểu sử của Paul Doumer và kéo theo đó là sự thiếu hiểu biết về một nhân vật, dù gì đi nữa cũng
Khi người ta nhận ra rằng thiếu hẳn mảng tư liệu về tiểu sử của Paul Doumer và kéo theo đó là sự thiếu hiểu biết về một nhân vật, dù gì đi nữa cũng
Khi người ta nhận ra rằng thiếu hẳn mảng tư liệu về tiểu sử của Paul Doumer và kéo theo đó là sự thiếu hiểu biết về một nhân vật, dù gì đi nữa cũng
Khi người ta nhận ra rằng thiếu hẳn mảng tư liệu về tiểu sử của Paul Doumer và kéo theo đó là sự thiếu hiểu biết về một nhân vật, dù gì đi nữa cũng
**Đảng Lập hiến Đông Dương** (tiếng Pháp: _Parti Constitutionaliste Indochinois_) là một chính đảng hoạt động ở Nam Kỳ trong thập niên 1910 đến 1930. Đảng này do Bùi Quang Chiêu, một kỹ sư canh
**Nhật đảo chính Pháp** hay **_Meigō Sakusen_** (明号作戦, _Minh Hào tác chiến_) là chiến dịch của quân Nhật diễn ra vào ngày 9 tháng 3 năm 1945 khi Chiến tranh thế giới thứ hai sắp
**Trường Y khoa Đông Dương** (tiếng Pháp: _École de Médecine de l'Indochine_) là một trường đại học y khoa công lập ở Liên bang Đông Dương do chính quyền đô hộ Pháp thành lập vào
**Viện Đại học Đông Dương** (tiếng Pháp: _Université Indochinoise_) là một viện đại học công lập ở Liên bang Đông Dương do chính quyền bảo hộ Pháp thành lập vào năm 1906. Viện đại học
**Sở Liêm phóng Đông Dương** hay **Sở Mật thám Đông Dương** (tiếng Pháp: **_Sûreté général indochinoise_**) là một cơ quan tình báo, mật thám và an ninh của chính quyền Liên bang Đông Dương, hoạt
**Chiến dịch Đông Dương thuộc Pháp năm 1940** hay **Chiến dịch Đông Dương lần thứ nhất** là quá trình Đế quốc Nhật Bản tấn công vào Đông Dương thuộc Pháp năm 1940. ## Mục đích
**Đồng Đông Dương** (tiếng Pháp: _piastre_) đơn vị tiền tệ người Pháp cho phát hành và lưu thông tại Đông Dương thuộc Pháp trong thời gian từ năm 1885 đến năm 1954. ## Đơn vị
**Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương** một cơ sở đào tạo về nghệ thuật trực thuộc Viện Đại học Đông Dương, thành lập ngày 27 Tháng 10 năm 1924 với sắc lệnh của Toàn
**Toàn quyền Úc** là đại diện liên bang của quân chủ Úc, hiện là Charles III. Toàn quyền thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo đề nghị của thủ tướng, Hội đồng hành chính liên
Tờ giấy bạc trị giá 20 _piastre_ tức [[đồng bạc Đông Dương do Ngân hàng Đông Dương phát hành năm 1898, Sài Gòn.]] nhỏ|Trụ sở Sài Gòn của Ngân hàng Đông Dương, sau là [[Ngân
Tập tài liệu này vốn là tài liệu Mật của Sở Mật thám thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương lưu giữ tại Cục Lưu trữ Quốc gia trước năm 1945, nay được chúng tôi sử
**Paul Doumer**, tên gọi đầy đủ **Joseph Athanase Doumer** (sinh ngày 22 tháng 3 năm 1857 tại Aurillac, Cantal, mất ngày 7 tháng 5 năm 1932 tại Paris) là một chính trị gia người Pháp.
**Quyền động vật trong các tôn giáo Ấn Độ** là quan điểm, quan niệm, giáo lý, học thuyết của các tôn giáo lớn ở Ấn Độ bao gồm Ấn Độ giáo (Hindu giáo), Phật giáo
**Martial Henri Merlin** (20 tháng 1 năm 1860 - 8 tháng 5 năm 1935) là một viên chức thuộc địa người Pháp. Ông nắm cương vị Toàn quyền Đông Dương trong giai đoạn 1923 -
**Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội** (chính tả cũ: Việt-Nam thanh-niên cách mệnh đồng-chí hội) là một tổ chức của Nguyễn Ái Quốc hoạt động chống lại thực dân Pháp tại Đông
**Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba** là một loạt các cuộc xung đột và chiến tranh giữa các lực lượng cộng sản của Việt Nam, Campuchia và Trung Quốc từ năm 1975 tới năm
**Jean Decoux** (5 tháng 5 năm 1884, Bordeaux - 21 tháng 10 năm 1963, Paris) là Toàn quyền Đông Dương thuộc Pháp giai đoạn 1940-1945, đại diện cho chính phủ Vichy Pháp. Vốn là sĩ
**Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta** (tên đầy đủ là **Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Cứu tế Thánh Gioan của Jerusalem, Rhodes và Malta**, tiếng Ý: _Sovrano Militare Ordine Ospedaliero di San Giovanni di Gerusalemme
**Jules Brévié** (12 tháng 3, 1880, Bagnères-de-Luchon - 29 tháng 7, 1964, Talizat) là quan cai trị thực dân; làm Toàn quyền ở Tây Phi thuộc Pháp và Đông Dương (bạn thân của Bộ trưởng
**Augustin Julien Fourès** (14 tháng 6, 1853, Pouilly - 16 tháng 6, 1915, Paris), là viên chức thuộc địa Pháp. Ông là toàn quyền Đông Dương giai đoạn tháng 3/1894 - 10/1894. ## Tiểu sử
**Pierre Marie Antoine Pasquier**, hay thường được biết với tên **Pierre Pasquier** (6 tháng 2, 1877-15 tháng 1, 1934) là Toàn quyền Đông Dương từ năm 1928 đến 1934. ## Thân thế Pierre Pasquier sinh
**François Marius Baudoin** (tháng 12, 1867, Nice - ?) là một chính trị gia người Pháp. ## Sự nghiệp Sinh ra trong một gia đình quan chức, Baudoin được gia đình cho ăn học và
nhỏ|Jean Marie Antoine de Lanessan. **Jean-Marie de Lanessan** (1843-1919) là một nhà tự nhiên học, bác sĩ, chính trị người Pháp. Ông giữ chức toàn quyền Đông Dương từ tháng 6 năm 1891 đến tháng
**Jean-Baptiste-Paul Beau** hay còn gọi **Paul Beau** (đọc là **Giăng Báp-tít-xtơ Pôn Bô**) (sinh 26 tháng 1 năm 1857 tại Bordeaux - mất 14 tháng 2 năm 1926 tại Paris) là một nhà ngoại giao,
**Đông Dương Lao động Đảng** (tiếng Pháp: _Parti Travailliste Indochinois_) là một chính đảng hoạt động trong giai đoạn 1926 - 1929, thành phần chủ yếu bao gồm giới tư sản và điền chủ Nam
**Armand Rousseau** (1835 - 1896), là một chính trị gia của Đảng Cộng hòa, Toàn quyền Đông Dương cho đến khi qua đời. Rousseau sinh vào ngày 24/8/1835 tại Tréflez. Ông bắt đầu sự nghiệp
**Maurice Long** (15 tháng 3 năm 1866 - 15 tháng 1 năm 1923) là một chính trị gia, luật sư người Pháp. Ông từng giữ chức bộ trưởng năm 1917 trong chính phủ của Paul
**Toàn quyền** là một chức danh để chỉ một chính trị gia có thẩm quyền đứng đầu một nước thuộc địa hoặc vùng lãnh thổ. Toàn quyền cũng có thể là một chức sắc được
**Antony Wladislas Klobukowski** (25 tháng 9, 1855, Auxerre – 24 tháng 4, 1934, Paris) là một nhà ngoại giao người Pháp, người đã giữ chức Toàn quyền Đông Dương từ tháng 8 năm 1908 đến
**Étienne Antoine Guillaume Richaud** (11 tháng 1 năm 1841 – 31 tháng 5 năm 1889) là một chính trị gia người Pháp, từng làm Chánh văn phòng của Bộ trưởng Bộ Thương mại và Thuộc
**Maurice Antoine François Monguillot ** (ngày 9 tháng 8 năm 1874 – ngày 23 tháng 6 năm 1945) là quân nhân và quan chức thuộc địa người Pháp ở Đông Dương. Ông từng ba lần
**Jean Antoine Ernest Constans** (1833-1913) là một chính trị gia người Pháp, toàn quyền Đông Dương đầu tiên của Pháp trong giai đoạn 1887-1888. Ernest Constans sinh tại Béziers (Hérault) ngày 3 tháng 5 năm
**Jules Georges Piquet** (13 tháng 1 tháng 1839 - 18 tháng 1 năm 1923) là một chính trị gia người Pháp. Ông từng là Toàn quyền Đông Dương thuộc Pháp, thời gian tại nhiệm từ
**Louis Alphonse Bonhoure** (2 tháng 7, 1864, Nîmes – 9 tháng 1, 1909, Sài Gòn) là luật sư và phó Thống đốc (Lieutenant Gouverneur) người Pháp ở Nam Kỳ, có mặt với tư cách là
**Albert Pierre Sarraut** (Phiên âm: **An-be Sa-rô**)(1872-1962) là chính khách người Pháp, đảng viên đảng Cấp tiến Pháp và đã hai lần làm thủ tướng Pháp. ## Thân thế Albert Saraut sinh ngày 28 tháng
**Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ** (tiếng Pháp: _Conseil colonial_), hay **Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ**, là một nghị viện tư vấn của chính quyền thuộc địa của Pháp ở Nam Kỳ. ## Lịch
**Léon Jean Laurent Chavassieux** (1848 - 1895) là quan cai trị Pháp ở Đông Dương. Ông này vào năm 1887 được Thống đốc Nam Kỳ cử làm Chủ tỉnh Tây Ninh ở Nam Kỳ, rồi
Bộ luật hình sự do chính quyền Bảo hộ Pháp san định, ban bố thi hành cho Trung Bộ từ năm 1933. Trong thời kỳ Pháp thuộc, sự chia rẽ ba xứ Bắc kỳ, Trung
Bộ luật hình sự do chính quyền Bảo hộ Pháp san định, ban bố thi hành cho Trung Bộ từ năm 1933. Trong thời kỳ Pháp thuộc, sự chia rẽ ba xứ Bắc kỳ, Trung
Bộ luật hình sự do chính quyền Bảo hộ Pháp san định, ban bố thi hành cho Trung Bộ từ năm 1933. Trong thời kỳ Pháp thuộc, sự chia rẽ ba xứ Bắc kỳ, Trung
**Ernest Nestor Roume** (sinh 12 tháng 7 năm 1858 - mất 1941) là một chính trị gia người Pháp, từng giữ chức Toàn quyền Tây Phi thuộc Pháp từ năm 1902 đến 1907 và Toàn