✨Nội chiến Bồ Đào Nha

Nội chiến Bồ Đào Nha

Nội chiến Bồ Đào Nha, còn được biết đến dưới tên gọi Chiến tranh Tự do, Chiến tranh Hai Anh Em, hoặc Chiến tranh Miguel, là một cuộc chiến tranh giành quyền kế vị vương quyền giữa phe lập hiến tự do và phe chuyên chế bảo thủ ở Bồ Đào Nha kéo dài từ năm 1828 đến 1834. Nó còn lôi kéo các nước khác nhập cuộc bao gồm Vương quốc Bồ Đào Nha, phiến quân Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, và Giáo hội Công giáo.

Gốc rễ xung đột

thumb|[[Đảo Anh|Anh quốc, được nhân cách hóa bởi John Bull, phe ủng hộ một Pedro khó chịu, đang khoanh tay ông, trong khi người em trai Miguel, được sự ủng hộ từ phía Áo, cố gắng giữ vương miện của mình]] Cái chết của vua João VI năm 1826 đã tạo ra một cuộc tranh cãi về quyền kế vị. Trong khi Dom Pedro, Hoàng đế Brasil, là con trưởng của nhà vua, người em trai của ông Miguel thì cho rằng Pedro đã bị tước mất quyền thừa kế ngai vàng bằng cách tuyên bố Brasil độc lập. Pedro chỉ trong chốc lát tự xưng mình là Dom Pedro IV của Bồ Đào Nha. Cả người Bồ Đào Nha lẫn người Brasil muốn có một chế độ quân chủ thống nhất; do đó, Pedro thoái vị nhằm ủng hộ đứa con gái Maria mới lên 7 tuổi. Vào tháng 4 năm 1826, để giải quyết tranh chấp quyền kế vị, Pedro bèn cho sửa đổi bản hiến pháp Bồ Đào Nha lần thứ nhất đã được ban hành vào năm 1822 và để lại ngai vàng cho Maria, với chị gái Isabel Maria làm nhiếp chính vương.

Hiến pháp mới

Trong Hiến chương lập hiến Bồ Đào Nha, Pedro đã cố gắng để hòa giải đảng chuyên chế và phe cánh tự do bằng cách cho phép cả hai phe phái nắm giữ chức vụ trong chính phủ. Không giống như Hiến pháp năm 1822, văn kiện mới này đã lập thành bốn nhánh trong chính phủ. Cơ quan lập pháp được chia thành hai viện. Thượng viện hay Viện Quý tộc bao gồm các nghị sĩ quyền thế cha truyền con nối và giới giáo sĩ do nhà vua bổ nhiệm. Hạ viện hay Viện Dân biểu bao gồm 111 đại biểu được bầu chọn với nhiệm kỳ bốn năm qua các cuộc bầu cử gián tiếp của hội đồng địa phương, mà lần lượt được bầu chọn với quyền bầu cử hạn chế chỉ có chủ sở hữu tài sản nộp thuế là nam giới. Quyền tư pháp đã được thực hiện bởi các tòa án; quyền hành pháp, do Bộ trưởng của chính phủ nắm giữ; và quyền lập pháp do nhà vua nắm giữ, có quyền phủ quyết tuyệt đối trên mọi luật lệ.

Bất mãn

thumb|[[Trận Vịnh Praia, ngày 11 tháng 8 năm 1829]] Đảng chuyên chế của địa chủ và Giáo hội lại không hài lòng với sự thỏa hiệp này, và họ tiếp tục coi Miguel là người thừa kế ngai vàng hợp pháp với lý do tuân theo nguyên tắc kế vị Bồ Đào Nha (được sự chấp thuận của Cortes sau khi phục hồi vương quyền năm 1640), Pedro đã mất quyền nối ngôi vua Bồ Đào Nha, và do đó phải lựa chọn một người kế nhiệm, khi ông đã sở hữu ngôi vua ở hải ngoại (Brasil). Họ hoảng sợ trước những cuộc cải cách của đảng Tự do được khởi xướng tại Tây Ban Nha bởi sự căm ghét cuộc Cách mạng Pháp (những cải cách mà giới quý tộc phong kiến ​​Bồ Đào Nha cho là thừa thãi) và để tâm đến sự phục hồi gần đây của vị vua chuyên quyền Fernando VII ở Tây Ban Nha (1823) đã xóa bỏ hết thảy những đổi mới dưới thời Napoléon. Tháng 2 năm 1828, Miguel trở về Bồ Đào Nha, bề ngoài là để đưa ra lời tuyên thệ trung thành với Hiến chương và nắm quyền nhiếp chính. Ngay lập tức ông được những người ủng hộ tôn làm vua rồi thôi thúc ông quay lại đường lối chuyên quyền. Một tháng sau khi trở về, Miguel giải tán Viện Dân biểu và Viện Quý tộc rồi đến tháng 5 cho triệu tập Hội nghị ba Đẳng cấp (Cortes) theo truyền thống của vương quốc để tuyên bố sự thừa nhận quyền hành tuyệt đối của mình. Cortes năm 1828 vội phê chuẩn ý muốn của Miguel, tôn ông làm vua lấy vương hiệu là Miguel I của Bồ Đào Nha và vô hiệu hóa Hiến chương lập hiến.

Nổi loạn

thumb|Quân đội đảng Tự do đang đổ bộ tại Pampelido, phía bắc [[Porto, ngày 8 tháng 7 năm 1832]] thumb|[[Trận Mũi St. Vincent (1833)|Trận Mũi St. Vincent, ngày 5 tháng 7 năm 1833]] Sự soán ngôi bị cáo buộc này không bị phe cánh tự do phản đối. Ngày 18 tháng 5, các đơn vị đồn trú ở Porto, trung tâm của phái cấp tiến Bồ Đào Nha, đã tuyên bố lòng trung thành của mình dành cho Pedro, với Maria da Glória, và bản Hiến chương lập hiến. Cuộc nổi dậy chống lại đảng chuyên chế lan sang các thành phố khác. Miguel đàn áp những cuộc nổi loạn, và hàng ngàn người tự do đều bị bắt giữ hoặc phải chạy trốn sang Tây Ban Nha và nước Anh. Năm năm trôi qua từ sau vụ đàn áp đẫm máu trong nước.

Trong khi đó, tại Brasil, quan hệ giữa Pedro và giới chủ đất nông nghiệp của Brasil đã trở nên căng thẳng. Tháng 4 năm 1831, Pedro thoái vị ở Brasil để ủng hộ cho con là Pedro II, và lên đường sang nước Anh. Ông đã tổ chức một cuộc viễn chinh quân sự ở đó rồi sau đấy đi đến hòn đảo Terceira tại quần đảo Azores, vốn đang nằm trong tay của đảng Tự do, để thiết lập một chính phủ lưu vong. Chính phủ của Miguel bèn đưa quân phong tỏa hòn đảo thế nhưng hạm đội phong tỏa đã bị một hạm đội hải quân Pháp tấn công trong suốt thời gian sắp tới tại trận hải chiến Tagus, nơi một số tàu thuyền của phe Miguel bị bắt giữ. Tháng 7 năm 1832, với sự ủng hộ của đảng Tự do ở Tây Ban Nha và Anh, đội quân viễn chinh dưới sự lãnh đạo của Dom Pedro đổ bộ ở gần Porto, mà quân phe Miguel bị bỏ rơi và là nơi sau khi diễn ra các hoạt động quân sự bao gồm trận Ponte Ferreira, Pedro và các cộng sự của mình đã bị lực lượng Miguel bao vây gần một năm nay. Để bảo vệ quyền lợi của người Anh, một hạm đội hải quân dưới sự chỉ huy của Hạm trưởng William Glascock trong chiếc HMS Orestes đã trú đóng ở Douro, nơi thường xuyên hứng chịu các cuộc bắn phá từ cả hai phía.

Tháng 6 năm 1833, đảng Tự do, vẫn còn bị bao vây tại Porto, gửi đến Algarve một lực lượng dưới sự chỉ huy của Công tước Terceira được yểm trợ bởi một đội tàu hải quân dưới sự chỉ huy của Charles Napier, sử dụng bí danh 'Carlos de Ponza'. Công tước Terceira đổ bộ tại Faro và hành quân về phía bắc ngang qua Alentejo để đánh chiếm thủ đô Lisboa vào ngày 24 tháng 7. Trong lúc đó, hạm đội của Napier giao chiến với hạm đội của đảng chuyên chế gần Mũi Saint Vincent (Cabo São Vicente) và quyết đánh bại quân đối phương tại trận Mũi St. Vincent lần thứ tư. Đảng Tự do đã có thể chiếm được Lisboa, nơi Pedro rút khỏi Porto và đẩy lùi một cuộc bao vây của quân Miguel. Một sự bế tắc kéo dài gần chín tháng xảy ra sau đó. Đến cuối năm 1833, Maria da Glória được triều thần tôn làm nữ hoàng và Dom Pedro đảm nhiệm chức nhiếp chính. Hành động đầu tiên của ông là ra lệnh tịch thu tài sản của tất cả những người đã từng phục vụ dưới trướng Dom Miguel. Ông cũng cấm tất cả các tu viện tôn giáo và tịch thu tài sản của họ, một hành động làm gián đoạn những mối quan hệ thân thiện với Roma suốt gần tám năm, mãi cho đến giữa năm 1841. Đảng chuyên chế nắm quyền kiểm soát các khu vực nông thôn, nơi họ nhận được sự ủng hộ từ giới quý tộc và bởi tầng lớp nông dân được Giáo hội kích động. Đảng Tự do chiếm đóng các thành phố lớn của Bồ Đào Nha như Lisboa và Porto, nơi họ chỉ huy một lực lượng khá lớn gồm các tầng lớp trung lưu. Các hoạt động chống lại phe Miguel lại bắt đầu một cách nghiêm túc vào đầu năm 1834. Trong khi ấy, lực lượng Tự do phải hứng chịu một thất bại gây chấn động ở Alcácer do Sal, điều này chứng tỏ rằng, bất chấp cuộc hành quân gần đây của Công tước Terceira từ Faro đến Lisboa, toàn miền Nam vẫn trung thành với Miguel.

Hòa bình lập lại

Trận đánh Asseiceira diễn ra vào ngày 16 tháng 5 năm 1834, là cuộc quyết chiến cuối cùng của cuộc nội chiến Bồ Đào Nha. Quân đội Miguel vẫn tỏ ra có ưu thế hơn (khoảng 18.000 người), nhưng vào ngày 24 tháng 5 năm 1834, tại Evoramonte, một nền hòa bình được công bố theo sự nhượng bộ mà Dom Miguel đã chính thức từ bỏ mọi yêu sách về ngôi vua Bồ Đào Nha, được bảo đảm một khoản lương hưu hàng năm, và dứt khoát lưu vong. Dom Pedro khôi phục bản Hiến chương lập hiến, nhưng ông đột ngột từ trần vào ngày 24 tháng 9 năm 1834. Maria da Glória lại tiếp tục triều đại bị gián đoạn của mình với vương hiệu Maria II của Bồ Đào Nha.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nội chiến Bồ Đào Nha**, còn được biết đến dưới tên gọi **Chiến tranh Tự do**, **Chiến tranh Hai Anh Em**, hoặc **Chiến tranh Miguel**, là một cuộc chiến tranh giành quyền kế vị vương
**Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _Portugal_, ), quốc hiệu là **Cộng hòa Bồ Đào Nha** (, ) là một quốc gia nằm ở phía Tây Nam của khu vực châu Âu, trên bán
**Đế quốc Bồ Đào Nha** () là đế quốc ra đời sớm nhất và kéo dài nhất trong lịch sử những đế quốc thực dân Châu Âu, kéo dài gần 6 thế kỷ, bắt đầu
**Chiến tranh thuộc địa Bồ Đào Nha** () đề cập đến cuộc chiến giữa Cộng hòa thứ hai của Bồ Đào Nha và các thuộc địa, từ năm 1961 đến 1974. Sau khi kết thúc
**Nội chiến Tây Ban Nha** () là một cuộc nội chiến giữa phe Cộng hòa và phe Quốc dân diễn ra ở Tây Ban Nha từ năm 1936 tới năm 1939. Phe Cộng hòa là
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Bồ Đào Nha** () là đội tuyển bóng đá nam đại diện cho Bồ Đào Nha trên bình diện quốc tế, được quản lý bởi Liên đoàn bóng đá
**Beatriz** (, ; 7 –13 tháng 2 năm 1373 – ) là người con hợp pháp duy nhất còn sống của Fernando I của Bồ Đào Nha và Leonor Teles, và là Vương hậu Castilla
**Nhà nước Mới** (tiếng Bồ Đào Nha: **_Estado Novo_**, ) là chế độ chính trị theo chủ nghĩa xã đoàn của Bồ Đào Nha từ năm 1933 đến năm 1974. Tiền thân của Nhà nước
Mầm mống của cuộc **Nội chiến Tây Ban Nha** bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19, khi các địa chủ lớn, gọi là _latifundios_, nắm giữ hầu hết quyền lực trong một thể chế quyền
**João VI** hoặc **John VI** (tiếng Bồ Đào Nha: **João VI**; – ), biệt danh là "the Clement", là vua của Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarve từ năm 1816 đến năm
_Dom_ **João IV** (; (19 tháng 3 năm 1604 – 6 tháng 11 năm 1656), hay còn được gọi với biệt danh **João Người** **Khôi phục** (_João, o Restaurador_), là Vua của Bồ Đào Nha
** Timor thuộc Bồ Đào Nha ** là tên của Đông Timor khi lãnh thổ này bị Bồ Đào Nha chiếm đóng. Trong hầu hết thời gian này, Bồ Đào Nha chia đôi đảo Timor
Dona **Maria II** (4 tháng 4 năm 1819 – 15 tháng 11 năm 1853), được mệnh danh là **"Nhà giáo dục"** (tiếng Bồ Đào Nha: _"a Educadora"_) hay **"Người mẹ tốt"** (tiếng Bồ Đào Nha:
_Dom_ **Manuel II của Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha phát âm: [mɐnuɛɫ]; tiếng Anh: Emmanuel II, 15 tháng 11 năm 1889 - 2 tháng 7 năm 1932), có biệt danh là **"Người Ái
**Chiến tranh Khôi phục Bồ Đào Nha** (; ) là tên gọi của các sử gia "lãng mạn" thế kỷ 19 trong cuộc chiến giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha bắt đầu từ
**Afonso I** (25 tháng 6, 1109, Guimarães hoặc Viseu – 6 tháng 12, 1185, Coimbra), thường được gọi là **Afonso Henriques** (), người Bồ Đào Nha gọi ông bằng biệt danh "Nhà Chinh phục" (),
**João II** (tiếng Bồ Đào Nha: João II, phát âm Bồ Đào Nha: [ʒuɐw]) còn được gọi là là "**Vị hoàng tử hoàn hảo**" (Tiếng Bồ Đào Nha: _o Príncipe Perfeito)_ là vua của Bồ
**Đệ Tam Cộng hòa Bồ Đào Nha** là một giai đoạn trong lịch sử Bồ Đào Nha tương ứng với chế độ dân chủ hiện tại được thiết lập sau khi Cách mạng hoa cẩm
**Nền kinh tế Bồ Đào Nha** là nền kinh tế lớn thứ 34 theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới trong năm 2019. Phần lớn hoạt động thương
Vua **João III của Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _João III de Portugal_; tiếng Tây Ban Nha: _Juan III de Portugal_; tiếng Anh: _John III of Portugal_; 7 tháng 6, 1502- 11 tháng
**Catarina Henriqueta của Bồ Đào Nha,** hay **Catarina Henriqueta của Bragança** (Tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina Henriqueta de Portugal_, _Catarina Henriqueta de Bragança_; sinh ngày 25 tháng 11 năm 1638 – mất ngày 31 tháng
**Sebastião I của Bồ Đào Nha** (, _o Desejado_; born in Lisbon, 20 tháng 1, 1554; được coi là mất tại Alcácer-Quibir, 4 tháng 8, 1578) là vị vua thứ 16 của Bồ Đào Nha
**Đệ nhất Cộng hoà Bồ Đào Nha** () kéo dài 16 năm trong thời kỳ hỗn độn của Lịch sử Bồ Đào Nha, giữa sự chấm dứt giai đoạn nhà nước quân chủ lập hiến
**Bá quốc Bồ Đào Nha** (; tiếng Anh: County of Portugal) đề cập đến hai bá quốc (lãnh địa của bá tước) thời Trung Cổ liên tiếp ở khu vực xung quanh Braga và Porto,
thumb|_[[Bacalhau_, cá tuyết khô muối của Bồ Đào Nha]] **Ẩm thực Bồ Đào Nha** chịu nhiều ảnh hưởng ẩm thực Địa Trung Hải. Sự ảnh hưởng của thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha cũng
**Lịch sử Bồ Đào Nha** có thể được bắt nguồn từ khoảng 400.000 năm trước, khi khu vực Bồ Đào Nha ngày nay có người Homo heidelbergensis sinh sống. Hóa thạch lâu đời nhất của
**Quân chủ miền Bắc** (), tên chính thức là **Vương quốc Bồ Đào Nha** (), là một cuộc cách mạng và chính phủ bảo hoàng trong thời gian ngắn đã xảy ra ở phía Bắc
**João Mário Naval da Costa Eduardo** (, sinh ngày 19 tháng 1 năm 1993); hay gọi đơn giản là **João Mário**, là một cầu thủ bóng đá người Bồ Đào Nha chơi cho câu lạc
**Maria Antónia của Bồ Đào Nha hay Maria Antónia của Bragança** (tiếng Bồ Đào Nha: _Maria Antónia Adelaide Camila Carolina Eulália Leopoldina Sofia Inês Francisca de Assis e de Paula Micaela Rafaela Gabriela Gonzaga Gregória
**Fernando Manuel Fernandes da Costa Santos** (sinh ngày 10 tháng 10 năm 1954) là một huấn luyện viên bóng đá chuyên nghiệp người Bồ Đào Nha và là cựu cầu thủ thi đấu ở vị
**Sancho I** (), biệt danh "Người cư trú" (), Vua Bồ Đào Nha (11 tháng 11, 1154 – 26 tháng 3, 1212) là người con trai hợp pháp thứ hai còn sống và là đưa
**Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarve** là một quốc gia quân chủ đa lục địa được thành lập khi tình trạng của Nhà nước Brasil được nâng lên, từ một thuộc
**Guiné thuộc Bồ Đào Nha** () được gọi là **Tỉnh hải ngoại Guiné** từ năm 1951, là thuộc địa của Tây Phi thuộc Bồ Đào Nha từ cuối thế kỷ 15 cho đến ngày 10
**Afonso V** () (15 tháng 1 năm 1432 - 28 tháng 8 năm 1481) là vua Bồ Đào Nha từ năm 1438 đến năm 1451. Ông thường được biết đến nhiều hơn với biệt hiệu
**Isabel của Bồ Đào Nha **(tiếng Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha: _Isabel de Portugal_; tiếng Anh: _Isabella of Portugal_; tiếng Đức: _Isabella von Portugal_; tiếng Pháp: _Isabelle de Portugal_; 24 tháng 10 năm
**Angola thuộc Bồ Đào Nha** hoặc đơn giản là **Angola** là tên chung cho các thuộc địa, quốc gia cấu thành và nhà nước Bồ Đào Nha có mặt trên bờ biển và trên toàn
Thuật ngữ **nội chiến** và **chiến tranh trong nước** thường được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng từ nội chiến được sử dụng nhiều hơn. Nó ám chỉ bất kỳ cuộc xung đột nào
**Chiến tranh giành độc lập Brasil** là cuộc chiến được tiến hành giữa Brasil và Bồ Đào Nha. Chiến tranh kéo dài từ tháng 2 năm 1822, khi những cuộc giao tranh đầu tiên giữa
**Nội chiến Angola** (tiếng Bồ Đào Nha: _Guerra civil angolana_) là một cuộc xung đột quân sự lớn ở quốc gia châu Phi Angola, bắt đầu từ năm 1975 và tiếp tục, với một số
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Nội chiến Sri Lanka** là một cuộc xung đột vũ trang trên đảo Sri Lanka. Bắt đầu từ ngày 23 tháng 7 năm 1983, đã có một cuộc nổi dậy bởi Tổ chức chính trị
**Angola** (, phiên âm tiếng Việt: _An-gô-la_), tên chính thức là **Cộng hòa Angola** (, ) là một quốc gia ở miền nam châu Phi, nằm bên bờ Đại Tây Dương. Nước này có chung
**Đông Timor** (phiên âm: "Đông Ti-mo") hay **Timor-Leste** (; **'), tên chính thức là **Cộng hòa Dân chủ Timor-Leste''' (, ), là một quốc gia ở khu vực Đông Nam Á, bao gồm nửa phía
**Cộng hòa Guinea Xích Đạo** (phiên âm tiếng Việt: **Ghi-nê Xích Đạo**; tiếng Tây Ban Nha: _República de Guinea Ecuatorial_) là một quốc gia nằm ở bờ biển phía tây của Trung Phi, với diện
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
**Nội chiến Trung Quốc** hay **Quốc Cộng nội chiến** (), kéo dài từ tháng 4 năm 1927 đến tháng 5 năm 1950, là một cuộc nội chiến tại Trung Quốc đại lục (với chính quyền
**Chiến tranh Độc lập Mozambique** là một xung đột quân sự giữa lực lượng du kích của Mặt trận Giải phóng Mozambique hay FRELIMO, và Bồ Đào Nha. Chiến tranh chính thức bắt đầu vào
**Mozambique**, tên chính thức là **Cộng hòa Mozambique** (phiên âm: Mô-dăm-bích; hay _República de Moçambique_, ), là một quốc gia ở đông nam châu Phi, giáp với Ấn Độ Dương về phía đông, Tanzania về
**Nội chiến Quốc-Cộng lần thứ 2** (); diễn ra từ năm 1945 đến năm 1950, là cuộc chiến giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm tranh giành quyền kiểm soát Trung
**Chiến tranh Bán đảo** (1807-1814) là một cuộc xung đột quân sự giữa đế chế của Napoleon và Bourbon Tây Ban Nha (với Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland liên minh với Vương quốc