✨João IV của Bồ Đào Nha

João IV của Bồ Đào Nha

Dom João IV (; (19 tháng 3 năm 1604 – 6 tháng 11 năm 1656), hay còn được gọi với biệt danh João Người Khôi phục (João, o Restaurador), là Vua của Bồ Đào Nha từ năm 1640 cho đến khi qua đời vào năm 1656. João IV đã khôi phục nền độc lập của Bồ Đào Nha khỏi sự cai trị của Tây Ban Nha dưới triều đại Habsburg bằng cách chấm dứt Liên minh Iberia kéo dài 60 năm, trong đó Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha cùng chung một chế độ quân chủ, và bằng cách thành lập Vương tộc Bragança cai trị ngai vàng của Bồ Đào Nha.

Trước khi lên ngôi, ông có tước hiệu là João II, Công tước thứ 8 xứ Bragança. João là cháu nội của Catarina, Công tước phu nhân xứ Bragança, một người đòi ngôi trong cuộc khủng hoảng kế vị Bồ Đào Nha năm 1580. Ngay trước khi João IV qua đời vào năm 1656, Đế quốc Bồ Đào Nha đang ở thời kỳ đỉnh cao về lãnh thổ, trải dài khắp thế giới.

Đầu đời

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Pedro_Am%C3%A9rico_-_Retrato_de_Dom_Jo%C3%A3o_IV,_infante,_duque_de_Bragan%C3%A7a.jpg|trái|nhỏ|213x213px|João khi còn là trẻ sơ sinh; [[Pedro Américo, 1879.]] João IV sinh ra tại Vila Viçosa và kế vị cha mình là Teodósio II làm Công tước xứ Bragança khi ông qua đời vì bệnh điên vào năm 1630. João kết hôn với Luisa de Guzmán (1613–66), con gái cả của Juan Manuel Pérez de Guzmán, Công tước thứ 8 xứ Medina Sidonia, vào năm 1633. João được mô tả là có mái tóc vàng và chiều cao trung bình.

Cai trị

Lên ngôi

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:JoaoIV_Google_Arts_Project.jpg|nhỏ|288x288px|João khi trở thành Vua Bồ Đào Nha, vẽ bởi [[José de Avelar Rebelo, khoảng những năm 1640.]] Khi Filipe II của Bồ Đào Nha (Felipe III của Tây Ban Nha) qua đời, người kế vị ông là con trai Filipe III (Felipe IV của Tây Ban Nha), người có cách tiếp cận khác đối với các vấn đề của Bồ Đào Nha. Thuế đánh vào thương nhân Bồ Đào Nha tăng, giới quý tộc trong nước bắt đầu mất đi ảnh hưởng và các chức vụ trong chính phủ Bồ Đào Nha ngày càng bị người Tây Ban Nha chiếm giữ. Cuối cùng, Filipe III cố gắng biến Bồ Đào Nha thành một tỉnh của Tây Ban Nha, đồng nghĩa với việc giới quý tộc Bồ Đào Nha sẽ mất hết mọi quyền lực.

Tình hình lên đến đỉnh điểm trong một cuộc cách mạng do giới quý tộc và giai cấp tư sản tổ chức, được thực hiện vào ngày 1 tháng 12 năm 1640, sáu mươi năm sau khi Felipe II của Tây Ban Nha lên ngôi vua Bồ Đào Nha. Một âm mưu được lên kế hoạch bởi một số cộng sự, được gọi là Bốn mươi kẻ âm mưu, những kẻ đã giết Quốc vụ khanh Miguel de Vasconcelos và giam cầm chị họ của nhà vua là Margherita của Savoia, Phó vương Bồ Đào Nha, người cai trị vương quốc nhân danh nhà vua. Quân đội của Felipe vào thời điểm đó đang chiến đấu trong Chiến tranh Ba Mươi Năm và cũng đang đối phó với một cuộc cách mạng tại Catalunya, những điều này đã cản trở nghiêm trọng khả năng dập tắt cuộc nổi loạn của Tây Ban Nha.

Chỉ trong vòng vài giờ và với sự ủng hộ của người dân, João, khi đó là Công tước xứ Bragança thứ 8, đã được tôn làm vua João IV của Bồ Đào Nha (theo như tương truyền kể lại, nhờ sự thuyết phục của vợ ông là Luisa de Guzmán), tuyên bố quyền kế vị hợp pháp thông qua bà nội là Catarina, Công tước phu nhân xứ Bragança. Cuộc xung đột tiếp theo với Tây Ban Nha đã đưa Bồ Đào Nha vào Chiến tranh Ba Mươi Năm, ít nhất với tư cách là phe tham gia từ bên ngoài. Từ năm 1641 đến năm 1668, thời kỳ mà hai vương quốc đang trong tình trạng chiến tranh, Tây Ban Nha đã tìm cách cô lập Bồ Đào Nha về mặt quân sự và ngoại giao, và Bồ Đào Nha đã cố gắng tìm kiếm các nguồn lực để duy trì nền độc lập thông qua các liên minh chính trị và duy trì thu nhập từ các thuộc địa.

Chiến tranh Khôi phục

Việc João lên ngôi đã dẫn đến một cuộc chiến tranh kéo dài với nước láng giềng Tây Ban Nha, một cuộc xung đột được gọi là Chiến tranh Khôi phục Bồ Đào Nha, kết thúc bằng việc công nhận nền độc lập của Bồ Đào Nha trong triều đại tiếp theo (1668). Bồ Đào Nha đã ký kết các liên minh lâu dài với Pháp (ngày 1 tháng 6 năm 1641) và Thụy Điển (tháng 8 năm 1641) nhưng về cơ bản, những đóng góp duy nhất của vương quốc trong Chiến tranh Ba Mươi Năm chỉ là trên chiến trường chống lại Tây Ban Nha và chống lại sự xâm lược của Hà Lan vào các thuộc địa của Bồ Đào Nha.

Giai đoạn từ năm 1640 đến năm 1668 được đánh dấu bằng những cuộc giao tranh định kỳ giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, cũng như các giai đoạn ngắn ngủi của cuộc chiến tranh nghiêm trọng hơn, phần lớn do sự vướng mắc của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha với các cường quốc không thuộc bán đảo Iberia. Tây Ban Nha đã tham gia vào Chiến tranh Ba Mươi Năm cho đến năm 1648 và Chiến tranh Pháp – Tây Ban Nha cho đến năm 1659, trong khi Bồ Đào Nha tham gia vào Chiến tranh Hà Lan – Bồ Đào Nha cho đến năm 1663. Tại Tây Ban Nha, một lực lượng xâm lược của Bồ Đào Nha đã đánh bại vương quốc tại Montijo, gần Badajoz vào năm 1644.

Khôi phục Đế quốc

Ở nước ngoài, người Hà Lan chiếm Malacca thuộc Bồ Đào Nha (tháng 1 năm 1641), và Imam của Oman chiếm Muscat (năm 1650). Tuy nhiên, Bồ Đào Nha dù phải chia quân giữa châu Âu, Brasil và châu Phi, đã chiếm lại được Luanda tại Angola thuộc Bồ Đào Nha từ tay Hà Lan vào năm 1648, và đến năm 1654, Bồ Đào Nha đã giành lại được miền bắc Brasil, nơi về cơ bản không còn là thuộc địa của Hà Lan. Điều này được phản công bằng việc mất đi Ceylon thuộc Bồ Đào Nha (ngày nay là Sri Lanka) vào tay Hà Lan, phe đã chiếm được Colombo vào năm 1656.

Cái chết và di sản

Vua João IV băng hà vào năm 1656 và được kế vị bởi con trai là Afonso VI. Con gái của João là Catarina xứ Bragança kết hôn với Vua Charles II của Anh. Bombay tại Ấn Độ được tặng làm của hồi môn cho Anh.

João là người bảo trợ cho âm nhạc và nghệ thuật, và là một nhà văn khá tinh tế về âm nhạc. Ngoài ra, ông còn là một nhà soạn nhạc. Trong thời gian trị vì, João đã sưu tầm một trong những thư viện lớn nhất thế giới, nhưng đã bị phá hủy trong trận động đất Lisboa năm 1755. Trong số các tác phẩm của João có một tác phẩm bảo vệ Palestrina và một tác phẩm Bảo vệ âm nhạc hiện đại (Lisboa, 1649). Một tác phẩm nổi tiếng được cho là của João là bản nhạc Crux fidelis, vẫn còn rất phổ biến trong Tuần Thánh trong dàn hợp xướng nhà thờ. Tuy nhiên, không có bản thảo nào được biết đến của tác phẩm tồn tại, và nó chỉ được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1869 tại Pháp. Dựa vào phong cách, tác phẩm này thường được công nhận là được viết vào thế kỷ 19.

Năm 1646, João IV tôn xưng Mary, khi thụ thai là Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội ('Immaculata'), là Bổn mạng của Bồ Đào Nha theo sắc lệnh của Vương tộc Bragança. Học thuyết này đã xuất hiện vào thời Trung cổ và được tranh luận dữ dội vào thế kỷ 15 và 16, nhưng một sắc lệnh do Giáo hoàng Phaolô V ban hành vào năm 1616 cuối cùng đã "[cấm] bất kỳ ai giảng dạy hoặc rao giảng một ý kiến ​​trái ngược". Ba năm sau, vào năm 1649, biểu tượng Đức Mẹ vô nhiễm được Francisco Pacheco (1564–1654), một cố vấn nghệ thuật người Tây Ban Nha của Tòa án dị giáo, thiết lập dựa trên Khải Huyền XII:1.

Gia đình

João kết hôn với Luisa de Guzmán, con gái của Juan Manuel Pérez de Guzmán, Công tước thứ 8 xứ Medina-Sidonia, và sinh ra một vài người con. Vì một số người con của João sinh ra và qua đời trước khi cha lên ngôi vua nên không được coi là infante hoặc infanta (người thừa kế ngai vàng) của Bồ Đào Nha.

Tổ tiên

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
_Dom_ **João IV** (; (19 tháng 3 năm 1604 – 6 tháng 11 năm 1656), hay còn được gọi với biệt danh **João Người** **Khôi phục** (_João, o Restaurador_), là Vua của Bồ Đào Nha
**João VI** hoặc **John VI** (tiếng Bồ Đào Nha: **João VI**; – ), biệt danh là "the Clement", là vua của Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarve từ năm 1816 đến năm
**Catarina Henriqueta của Bồ Đào Nha,** hay **Catarina Henriqueta của Bragança** (Tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina Henriqueta de Portugal_, _Catarina Henriqueta de Bragança_; sinh ngày 25 tháng 11 năm 1638 – mất ngày 31 tháng
**Ana de Jesus Maria của Bồ Đào Nha, hay Ana de Jesus Maria của Bragança** (_Ana de Jesus Maria Luísa Gonzaga Joaquina Micaela Rafaela Sérvula Antónia Francisca Xavier de Paula de Bragança e Bourbon_; Mafra,
**Henrique** (; 31 tháng 1 năm 1512 – 31 tháng 1 năm 1580) là Vua của Bồ Đào Nha và là một hồng y của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông làm vua của Bồ
**Afonso V** () (15 tháng 1 năm 1432 - 28 tháng 8 năm 1481) là vua Bồ Đào Nha từ năm 1438 đến năm 1451. Ông thường được biết đến nhiều hơn với biệt hiệu
**Miguel** I (Tiếng Anh: **Michael I**) (1802-1866), biệt danh **Kẻ độc tài** (Tiếng Bồ Đào Nha: _"o Absolutista"_) hay **Kẻ bảo thủ** (Tiếng Bồ Đào Nha:_"o Tradicionalista"_) hoặc **Kẻ cướp ngôi** (Tiếng Bồ Đào Nha:_"o
**Maria Antónia của Bồ Đào Nha hay Maria Antónia của Bragança** (tiếng Bồ Đào Nha: _Maria Antónia Adelaide Camila Carolina Eulália Leopoldina Sofia Inês Francisca de Assis e de Paula Micaela Rafaela Gabriela Gonzaga Gregória
_Dom_ **Manuel II của Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha phát âm: [mɐnuɛɫ]; tiếng Anh: Emmanuel II, 15 tháng 11 năm 1889 - 2 tháng 7 năm 1932), có biệt danh là **"Người Ái
**Vua Bồ Đào Nha** trị vì từ hồi thành lập Vương quốc Bồ Đào Nha vào năm 1139 cho đến khi phế bỏ chế độ quân chủ Bồ Đào Nha và sáng lập nền Cộng
**Chiến tranh Khôi phục Bồ Đào Nha** (; ) là tên gọi của các sử gia "lãng mạn" thế kỷ 19 trong cuộc chiến giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha bắt đầu từ
Dona **Maria II** (4 tháng 4 năm 1819 – 15 tháng 11 năm 1853), được mệnh danh là **"Nhà giáo dục"** (tiếng Bồ Đào Nha: _"a Educadora"_) hay **"Người mẹ tốt"** (tiếng Bồ Đào Nha:
**Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _Portugal_, ), quốc hiệu là **Cộng hòa Bồ Đào Nha** (, ) là một quốc gia nằm ở phía Tây Nam của khu vực châu Âu, trên bán
**Đế quốc Bồ Đào Nha** () là đế quốc ra đời sớm nhất và kéo dài nhất trong lịch sử những đế quốc thực dân Châu Âu, kéo dài gần 6 thế kỷ, bắt đầu
**Nội chiến Bồ Đào Nha**, còn được biết đến dưới tên gọi **Chiến tranh Tự do**, **Chiến tranh Hai Anh Em**, hoặc **Chiến tranh Miguel**, là một cuộc chiến tranh giành quyền kế vị vương
_Dom_ **Pedro II** (**Peter II** ; 26 tháng 4 năm 1648 – 9 tháng 12 năm 1706), biệt danh **_o Pacífico_**, là Vua Bồ Đào Nha từ năm 1683 cho đến khi qua đời, sau
**Maria Cristina Isabel của Tây Ban Nha hay María Cristina Isabel de Borbón y Borbón-Dos Sicilias** (tiếng Tây Ban Nha: _Maria Cristina Isabel de España_; 5 tháng 6 năm 1833 – 19 tháng 1 năm
Doña **Carlota Joaquina của Tây Ban Nha hay Carlota Joaquina de Borbón** (Carlota Joaquina Teresa Cayetana; 25 tháng 4 năm 1775 - 7 tháng 1 năm 1830), được sinh ra là một Infanta của vương
Dom **Pedro I** (tiếng Việt:Phêrô I; 12 tháng 10 năm 1798 – 24 tháng 9 năm 1834), biệt danh "Người Giải phóng", là người thành lập và nhà cai trị đầu tiên của Đế quốc Brasil. Với
**Tòa nhà Leal Senado** (tiếng Bồ Đào Nha cho "Loyal Senate", nghĩa là _Sen thượng viện trung thành_) là trụ sở của chính phủ Ma Cao thuộc Bồ Đào Nha, gồm Hội đồng Lập pháp
Dom **Nuno Álvares Pereira**, OCarm (phát âm tiếng Bồ Đào Nha châu Âu: [ˈnunu ˈalvɐɾɨʃ pɨˈɾɐjɾɐ]; 24 tháng 6 năm 1360 – 1 tháng 11 năm 1431) là một vị tướng Bồ Đào Nha rất
Dona **Maria Amélia** (1 tháng 12 năm 1831 – 4 tháng 2 năm 1853) là Hoàng nữ của Đế quốc Brasil và là thành viên của nhánh Brasil của Vương tộc Bragança. Cha mẹ cô
**Thời đại Khám phá** hay **Thời đại Thám hiểm** là cách gọi phổ thông về những khám phá địa lý của châu Âu vào khoảng thời kỳ cận đại, phần lớn trùng lặp với kỷ
**Trường Đại học Coimbra** (, ) là một trường đại học công lập ở Coimbra, Bồ Đào Nha. Được thành lập tại Lisboa vào năm 1290, trường dời đến Coimbra vào năm 1537. Đại học
thumb|right|upright=1.35|"Độc lập hay là chết", [[Pedro I của Brasil|Vương tử Pedro tuyên bố Brasil độc lập vào ngày 7 tháng 9 năm 1822. Đội cận vệ danh dự của ông hoan hô ủng hộ ông
thumb|right|Huy hiệu của Công tước xứ Beja. thumb|right|Huy hiệu cá nhân của Hoàng tử Luís, Công tước thứ 5 xứ Beja. **Công tước xứ Beja** (tiếng Bồ Đào Nha: _Duque de Beja_) là một tước
Dom **Afonso I xứ Braganza** (phát âm tiếng Bồ Đào Nha: [ɐˈfõsu]; 10 tháng 8 năm 1377 – 15 tháng 12 năm 1461) là con trai ngoài giá thú của Vua João I của Bồ
**Liên minh Iberia** là một thuật ngữ hiện đại dùng để chỉ sự thống nhất lịch sử và chính trị cai trị toàn bộ bán đảo Iberia phía nam Pirenia từ năm 1580 đến 1640.
**Nhà Bragança** (tiếng Bồ Đào Nha: _Casa de Bragança_; tiếng Anh: _House of Braganza_) là một hoàng tộc sản sinh ra các hoàng đế, thân vương và công tước gốc Bồ Đào Nha trị vì
Dưới đây là **danh sách các nhà lãnh đạo nhà nước vào thế kỷ 18** (1701–1800) sau Công nguyên, ngoại trừ các nhà lãnh đạo trong Đế chế La Mã Thần thánh và các nhà
**François I** (tiếng Pháp: François Ier; tiếng Pháp Trung cổ: Francoys; 12 tháng 9 năm 1494 – 31 tháng 3 năm 1547) là Quốc vương Pháp từ năm 1515 cho đến khi qua đời vào
**Đế quốc Brasil** là một nhà nước tồn tại vào thế kỷ 19, có chủ quyền đối với các lãnh thổ tạo thành Brasil và Uruguay (cho đến năm 1828). Đế quốc Brasil là một
**Elizabeth xứ York** (tiếng Anh: _Elizabeth of York_; tiếng Pháp: _Élisabeth d'York_; Tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de York_; 11 tháng 2, năm 1466 - 11 tháng 2, năm 1503), là Vương hậu của Vương
**Đệ Nhất đế chế**, hay **chế độ Napoleon**, tên chính thức **Cộng hòa Pháp**, sau đó là **Đế quốc Pháp** (; ) là một chế độ chính trị trong lịch sử nước Pháp, do Napoléon
**Chairachathirat** (, ), hay _Chai_, là vị Quốc vương thứ 13 của Vương quốc Ayutthaya trong lịch sử Thái Lan, trị vì trong 13 năm từ 1533 đến 1546. Triều đại của ông chứng kiến
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
Ngày **1 tháng 1** là ngày thứ 1 trong lịch Gregory. Đây là ngày đầu tiên trong năm. ## Lịch sử Trong suốt thời Trung cổ dưới ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma,
Ngày **8 tháng 9** là ngày thứ 251 (252 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 114 ngày trong năm. ## Sự kiện *712 – Thái tử Lý Long Cơ tiến hành lễ đăng quang
Từ **Rosa** có thể là: * Tên gọi bằng tiếng Latinh và tên khoa học của một số loài cây bụi có hoa, là các loài hoa hồng. * Họ hoặc tên người tại một