✨Nhà thờ Đức Bà Paris (nhạc kịch)

Nhà thờ Đức Bà Paris (nhạc kịch)

Nhà thờ Đức Bà Paris () là vở nhạc kịch tiếng Pháp công diễn vào ngày 16 tháng 9 năm 1998 tại Cung Hội nghị Paris, Pháp. Vở này dựa trên tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Victor Hugo. Phần nhạc và lời lần lượt do Richard Cocciante và Luc Plamondon đảm trách. Đạo diễn là Gilles Maheu.

Sau Pháp, Nhà thờ Đức Bà Paris đã tìm đến một số quốc gia khác như Bỉ, Thụy Sĩ và Canada (Québec). Vở nhạc kịch được diễn lại nhiều lần ở Montréal. Có bản chuyển ngữ sang tiếng Ý (diễn ở Roma và Verona), tiếng Tây Ban Nha (diễn ở Madrid và Barcelona) và tiếng Nga (diễn ở Moskva). Năm 2000, một phiên bản ngắn hát bằng tiếng Anh được diễn ở Las Vegas, Hoa Kỳ. Vở kịch đầy đủ bằng tiếng Anh cũng ra mắt tại Luân Đôn, Anh. Năm 2005, chuyến lưu diễn quốc tế bằng tiếng Pháp đã đến Bắc Kinh, Thượng Hải (Trung Quốc), Seoul (Hàn Quốc), Đài Loan và trở về Paris vào tháng 12 cùng năm.. Năm 2009, các nghệ sĩ ban đầu cùng nhau tham gia chuyến lưu diễn kỷ niệm, đến Nga và Ukraina vào tháng 12 năm 2010.

Một số nhạc phẩm trong nhạc kịch đã trở nên phổ biến, chẳng hạn "Belle" và "Le Temps des cathédrales". "Belle" và/hoặc "Le Temps des cathédrales" đã được dịch sang tiếng Belarus, tiếng Catala, tiếng Séc, tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Litva, tiếng Ba Lan, tiếng Nga, tiếng Hà Lan, tiếng Anh và tiếng Việt.

Tính đến năm 2013, nhạc kịch Nhà thờ Đức Bà Paris đã được diễn hơn 5.000 lần ở khoảng hai mươi quốc gia khác nhau. Nó được xem là vở nhạc kịch phổ biến nhất châu Âu trong vòng năm năm từ 1998 đến 2002. Nhạc kịch cũng được Sách kỷ lục Guinness chứng nhận là nhạc kịch bán vé chạy nhất trong năm đầu tiên công diễn.

Tóm tắt

Lưu ý: các chi tiết trong nhạc kịch không hoàn toàn giống với tiểu thuyết.

Màn I

Nhạc kịch lấy bối cảnh đô thành Paris năm 1482. Tại đây nhà thơ nghèo Pierre Gringoire kể lại câu chuyện mà anh chứng kiến.

Đoàn người Di-gan (Bohémienne) vô gia cư (dẫn đầu là Clopin) lũ lượt kéo đến cổng Nhà thờ Đức Bà tìm nơi trú ngụ, gây khó chịu cho Phó Giám mục Nhà thờ là Frollo. Ông yêu cầu Phœbus - trưởng đội cung thủ của hoàng gia - trục xuất những người này. Tuy nhiên, điều chẳng ngờ tới là Phœbus lại mắc vào ái tình với cô gái trẻ xinh đẹp tên là Esméralda trong đoàn Di-gan, dù anh này đã có tình nhân. Cô gái ngây thơ cũng yêu thầm Phœbus.

Frollo yêu cầu Quasimodo (người kéo chuông nhà thờ có hình hài xấu xí) bắt cóc Esméralda. Vốn một lòng trung thành với Frollo, Quasimodo tuân mệnh nhưng không may thất bại và bị Phœbus bắt. Phœbus nhân dịp này hẹn gặp Esméralda tại Cabaret du Val d'Amour. Một lần Gringoire vô tình đi vào khu vực của dân vô gia cư và bị Clopin bắt được. Clopin cảnh báo nếu không có người phụ nữ nào đồng ý cưới Gringoire thì anh sẽ bị treo cổ. May mắn cho anh, Esméralda đã nhận lời (trên danh nghĩa).

Quasimodo chịu đựng bị trói tay trói chân. Anh kêu gào đòi uống nước nhưng không ai đoái hoài, chỉ trừ Esméralda bất ngờ đưa nước đến. Quasimodo được thả, và đến đây trên sân khấu xuất hiện cả Frollo và Phœbus; cả ba cùng hát về tình yêu của mình đối với Esméralda.

Tối hôm đó, Phœbus tới gặp Esméralda ở Cabaret du Val d'Amour, đằng sau có một bóng đen (Frollo) bí mật bám theo. Khi đang tình tự với Esméralda thì Phœbus bị bóng đen dùng dao đâm ngã gục.

Màn II

Mở đầu màn II là cảnh Frollo và Gringoire cùng nhau bàn luận một số vấn đề. Gringoire cho Quasimodo biết Esméralda đang bị giam ở nhà tù La Sainte và sẽ bị treo cổ vì tội hãm hại Phœbus. Clopin và một số người khác cũng bị bắt giam vào đây. Frollo dùng cách tra tấn để ép Esméralda nhận tội và phán cô tội treo cổ. Sáng sớm ngày hành hình, Frollo đến thú nhận với Esméralda rằng chính ông đã đâm Phœbus, đồng thời cho cô lựa chọn: hoặc yêu ông hoặc chết. Esméralda tỏ ra ghê tởm và chối phắt đi. Lúc đó, Clopin - được Quasimodo giải cứu - lao tới đánh Frollo bất tỉnh, cứu được Esméralda. Quasimodo đưa Esméralda về trú trong nhà thờ Đức Bà - nơi Clopin và những người khác tạm chiếm. Bên ngoài, Frollo và Phœbus kéo quân tới đàn áp thành công những người chiếm đóng. Clopin trước khi chết đã nhờ Esméralda lãnh trách nhiệm làm người các anh em khác. Cô rốt cuộc cũng thất bại và bị Phœbus ra lệnh treo cổ. Sau khi nghe Frollo tuyên bố chính mình là chủ mưu gây ra cái chết của Esméralda, Quasimodo giận dữ hất Frollo từ nơi cao khiến ông ta tử vong. Trong cảnh cuối, Quasimodo đòi nhận thi thể của Esméralda và gục khóc trên xác cô.

Phân vai

Sản xuất

Năm 1993, sau thành công mang tính hiện tượng của Starmania (công diễn năm 1978) và thất bại của La Légende de Jimmy (công diễn năm 1990), Luc Plamondon quyết định lấy cảm hứng từ lịch sử để viết vở nhạc kịch tiếp theo của ông. Ông đắm mình trong tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris của văn hào Victor Hugo, kết quả là ông ghi lại được ba mươi ý tưởng ca khúc sau khi đọc qua sáu trăm trang sách. Plamondo chia sẻ: "Tôi muốn đưa lịch sử vĩ đại mà cả thế giới đều biết vào các ca khúc của mình. Ai mà biết được, điều này có thể mở ra cho tôi...phần còn lại của thế giới." Ông chợt nhớ ra rằng không lâu trước đây, cộng sự cũ của ông là Richard Cocciante có viết một bản nhạc để dành cho một "Dự án lớn", hiện đang giữ trong ngăn kéo. Ông thổ lộ rằng ban đầu từng cảm thấy rất sợ khi chọn đề tài liên quan đến một tượng đài của nền văn học Pháp như vậy. Tuy nhiên, chính vẻ đẹp trong ca từ của ca khúc "Belle" ("Người đẹp") đã làm ông hài lòng và tin tưởng vào dự án của bạn mình, rằng chỉ năm năm sau thôi thì bài hát sẽ được công nhận là tác phẩm thành công. Về sau, Plamondon thừa nhận đã nảy ra ý tưởng về bài hát sau khi xem xong bộ phim Nhà thờ Đức Bà Paris (1956) của đạo diễn Jean Delannoy.

Luc Plamondon và Richard Cocciante dành ra ba năm (từ 1994 đến 1996) để soạn nhạc và lời cho nhạc kịch. Bộ đôi nhận ra rằng tác phẩm sẽ dài hơn ba giờ đồng hồ, tức là cần phải tìm cách cắt giảm thời lượng xuống. Vào lúc này xuất hiện sự can dự của giám đốc Gilles Maheu. Vốn là một người luôn đi tiên phong, Maheu bày tỏ bản thân ông cảm thấy vở nhạc kịch này rất lôi cuốn. Ngay tức khắc Plamondon đáp lời: "Dự án của tôi sẽ không làm ông thích thú gì đâu, bởi nó là một truyện kể rất cổ điển!". Maheu vặn lại: "Ông có biết rằng tác phẩm đầu tay của tôi là một vở ba lê về Esméralda và ba người mê đắm cô nàng không?"

Hoàn thành phần việc nặng nhất, Plamondon và Cocciante lại bắt tay vào tìm nhà sản xuất cho đứa con tinh thần của họ. Sau ba lần mời gọi bất thành, Plamondon và bạn lâu năm là Guy Darmet - Giám đốc Nhà hát ca múa Lyon - đến đặt vấn đề với Victor Bosch - chủ rạp Transbordeur ở Lyon. Bosch tỏ ra khá quan tâm và đã tổ chức một cuộc gặp mặt với Charles Talar. Bosch nói: "Nhạc kịch của Plamondon, tôi quan tâm đấy; nhạc của Cocciante, tuyệt vời; tiểu thuyết của Victor Hugo, tuyệt!" Thế là mặc dù chưa đọc hay nghe qua thứ gì trong nhạc kịch nhưng Talar phát biểu: "Nếu các ông đồng ý, tôi sẽ sản xuất vở này và album nhạc cùng với Victor." Trong buổi diễn thử sau đó, Cocciante thủ tất cả các vai bên cây đàn dương cầm, trong khi Plamondon thì dàn cảnh. Về phía Cung Hội nghị Paris, họ muốn vở Nhà thờ Đức Bà Paris diễn vào mùa thu năm 1998. Tháng 1 năm 1997, các bên liên quan cùng nhau ký kết hợp đồng.

Thử giọng

Gần bốn trăm ca sĩ đã đến thử giọng ở cả hai bờ Đại Tây Dương, cuối cùng rút lại chỉ chọn bảy người. Sáu trăm vũ công và người nhào lộn tham gia thử việc, cuối cùng rút lại còn mười sáu người. Trong suốt hơn hai năm, những con người đến từ mười hai quốc gia khác nhau này sẽ là thành viên của đoàn kịch, được đảm bảo có việc làm vào mỗi buổi tối. Đi kèm các ca sĩ-diễn viên và vũ công là bốn mươi kỹ thuật viên, người phụ trách phông cảnh, nhân viên làm tóc, nghệ sĩ trang điểm, người giữ trang phục và các trợ lý.

Đội ngũ thiết kế

Gilles Maheu tìm kiếm nhà thiết kế phần nhìn đến từ châu Âu, riêng phần ánh sáng thì ông giao cho Alain Lortie đến từ Montréal, Canada. Ông trao nhiệm vụ trang trí cho Christian Rätz, nhiệm vụ thiết kế trang phục cho Fred Sathal, nhiệm vụ chỉ đạo ba lê đương đại cho biên đạo múa Martino Müller.

Marketing

Charles Talar là người vạch ra chiến lược marketing bằng kinh nghiệm của ba mươi lăm năm trong nghề. Hàng tuần, ông có các cuộc họp với các nhà sáng tạo, đội ngũ sản xuất và nhân viên xúc tiến quảng bá tác phẩm. Một áp phích rộng 700 mét vuông được treo trước mặt tiền Cung Hội nghị Paris nhằm quảng cáo cho vở nhạc kịch trong vòng một năm trước khi công diễn.

Công diễn

Gilles Mahe tổ chức buổi diễn theo phong cách hòa nhạc với dàn ca sĩ chính ở giữa sân khấu còn các vũ công diễn nền phía sau sân khấu. Phần nhạc của dàn nhạc giao hưởng cũng như phần hợp xướng được thu âm sẵn từ trước; các ca sĩ-diễn viên đeo microphone sát miệng.

Album và đĩa đơn

Album nguyên bản được ghi âm và phối khí tại Artistic Palace à Paris. Album đầy đủ được thu âm trực tiếp trong buổi diễn tại Cung Hội nghị Paris.

Song hành cùng sự kiện công diễn nhạc kịch, ba ca khúc trong tác phẩm đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn, đó là các bài hát "Vivre", "Le Temps des cathédrales" và "Belle". "Belle" trở thành Ca khúc của năm ở Pháp và được đề cử ngôi vị Ca khúc của thế kỷ. Bản tiếng Anh của "Vivre" ("Live for the One I Love") được cả hai nữ ca sĩ là Tina Arena (đóng vai Esméralda khi diễn tại Anh) và Celine Dion phát hành ra thị trường, mặc dù Celine Dion không tham gia nhạc kịch này.

Danh sách album

  • 1997: Album phòng thu gồm 16 ca khúc (một CD)
  • 1998: Album thu trực tiếp gồm 53 ca khúc (hai CD)

Ảnh hưởng và đón nhận

Nhà thờ Đức Bà Paris đã đưa nhạc kịch trở lại thành mốt thời thượng ở Pháp; nhiều tác phẩm khác đã thi nhau ra đời sau tác phẩm này. Theo Luc Plamondon và Richard Cocciante, tính riêng tại các quốc gia nói tiếng Pháp (Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ, Canada) thì đã có bốn triệu người xem nhạc kịch này, còn tính chung toàn cầu thì có 7,5 triệu người. Hơn 10 triệu album và năm triệu đĩa đơn đã được bán ra với nhiều phiên bản và ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên khi diễn tại Anh, nhạc kịch nhận được đánh giá khen chê lẫn lộn, nhìn chung là khen ngợi phần nhạc nhưng chế giễu phần lời dịch ra tiếng Anh. Báo The Times đánh giá vai diễn Quasimodo của Garou là đầy "năng lượng sầu lụy", các vũ công diễn nhiệt tình song kết luận rằng nhạc kịch này chẳng phải là một bản Những người khốn khổ khác.

Giải thưởng

  • Hai giải Victoires de la musique năm 1999, gồm giải Bài hát của năm (Chanson originale de l'année) cho ca khúc "Belle" và giải Buổi diễn hay nhất năm

Danh sách bài hát trong nhạc kịch

Nguyên bản tiếng Pháp

;Màn I

  1. Ouverture - Dàn nhạc giao hưởng
  2. Le Temps des cathédrales - Gringoire
  3. Les Sans-papiers - Clopin & hợp xướng
  4. Intervention de Frollo - Frollo & Phœbus
  5. Bohémienne - Esmeralda
  6. Esmeralda tu sais - Clopin
  7. Ces diamants-là - Fleur-de-Lys & Phœbus
  8. La Fête des fous - Gringoire & hợp xướng
  9. Le Pape des fous - Quasimodo
  10. La Sorcière - Frollo & Quasimodo
  11. L'Enfant trouvé - Quasimodo
  12. Les Portes de Paris - Gringoire
  13. Tentative d'enlèvement - Phœbus & Esmeralda
  14. La Cour des miracles - Clopin, hợp xướng & Esmeralda
  15. Le Mot Phœbus - Esmeralda & Gringoire
  16. Beau comme le soleil - Esmeralda & Fleur-de-Lys
  17. Déchiré - Phœbus
  18. Anarkia - Frollo & Gringoire
  19. À boire! - Hợp xướng, Frollo & Quasimodo
  20. Belle - Quasimodo, Frollo & Phœbus
  21. Ma maison, c'est ta maison - Quasimodo & Esmeralda
  22. Ave Maria païen - Esmeralda
  23. Je sens ma vie qui bascule - Frollo / Si tu pouvais voir en moi (2001) - Quasimodo
  24. Tu vas me détruire - Frollo
  25. L'Ombre - Phœbus & Frollo
  26. Le Val d'amour - Gringoire, hợp xướng & Phœbus
  27. La Volupté - Phœbus & Esmeralda
  28. Fatalité - Gringoire, Frollo, Quasimodo, Clopin & Fleur-de-Lys

;Màn II 29. Florence - Frollo & Gringoire
30. Les Cloches - Gringoire, Frollo, Quasimodo & hợp xướng
31. Où est-elle ? - Frollo, Gringoire & Clopin
32. Les oiseaux qu'on met en cage - Esmeralda & Quasimodo
33. Condamnés - Clopin & hợp xướng
34. Le Procès - Frollo & Esmeralda
35. La Torture - Frollo & Esmeralda
36. Phœbus - Esmeralda
37. Être prêtre et aimer une femme - Frollo
38. La Monture - Fleur-de-Lys
39. Je reviens vers toi - Phœbus
40. Visite de Frollo à Esmeralda - Frollo & Esmeralda
41. Un matin tu dansais - Frollo & Esmeralda
42. Libérés - Quasimodo, Clopin, Esmeralda, Gringoire & hợp xướng
43. Lune - Gringoire
44. Je te laisse un sifflet - Quasimodo & Esmeralda
45. Dieu que le monde est injuste - Quasimodo
46. Vivre - Esmeralda
47. L'Attaque de Notre-Dame - Clopin, Frollo, Phœbus, Esmeralda, Gringoire & hợp xướng
48. Déportés - Phœbus & hợp xướng
49. Mon maître, mon sauveur - Quasimodo & Frollo
50. Donnez-la moi - Quasimodo
51. Danse mon Esmeralda - Quasimodo
52. Danse mon Esmeralda (hợp ca) - Dàn nhạc giao hưởng
53. Le Temps des cathédrales (hợp ca) - Gringoire & Ensemble

Bản tiếng Anh

Nhiệm vụ chuyển ngữ lời nhạc sang tiếng Anh do Will Jennings - người viết lời ca khúc nổi tiếng "My Heart Will Go On" - đảm nhiệm.

;Màn I

  1. Ouverture - Dàn nhạc giao hưởng
  2. The Age of the Cathedrals - Gringoire
  3. The Refugees - Clopin & hợp xướng
  4. Frollo's Intervention- Frollo & Phœbus
  5. The Bohemian Song - Esmeralda
  6. Esmeralda You Know - Clopin
  7. So Look No More for Love - Fleur-de-Lys & Phœbus
  8. The Feast of Fouls - Gringoire & hợp xướng
  9. The King of Fouls - Quasimodo
  10. The Sorceress - Frollo & Quasimodo
  11. The Foundling - Quasimodo
  12. The Doors of Paris - Gringoire
  13. Kidnap Attempt - Phœbus & Esmeralda
  14. The Court of the Miracles - Clopin, hợp xướng & Esmeralda
  15. The Word Phœbus - Esmeralda & Gringoire
  16. Shining Like the Sun - Esmeralda & Fleur-de-Lys
  17. Torn Apart - Phœbus
  18. Anarchy - Frollo & Gringoire
  19. Water Please! - Hợp xướng, Frollo & Quasimodo
  20. Belle (Is the Only Word) - Quasimodo, Frollo & Phœbus
  21. Home in the Sky - Quasimodo & Esmeralda
  22. Pagan Ave Maria- Esmeralda
  23. If You Could See inside Me - Quasimodo
  24. Your Love Will Kill Me - Frollo
  25. The Shadow - Phœbus & Frollo
  26. At Val d'Amour - Gringoire, hợp xướng & Phœbus
  27. The Voluptary - Phœbus & Esmeralda
  28. Destiny - Gringoire, Frollo, Quasimodo, Clopin & Fleur-de-Lys

;Màn II 29. Talk to Me of Florence - Frollo & Gringoire
30. The Bells - Gringoire, Frollo, Quasimodo & hợp xướng
31. Where Is She ? - Frollo, Gringoire & Clopin
32. The Birds They Put in Cages - Esmeralda & Quasimodo
33. Cast Away - Clopin & hợp xướng
34. The Trial - Frollo & Esmeralda
35. Torturer - Frollo & Esmeralda
36. Phœbus If You Can Hear Me - Esmeralda
37. I'm a Priest - Frollo
38. My Heart If You Will Swear - Fleur-de-Lys
39. To Get Back to You - Phœbus
40. Frollo's Visit to Esmeralda - Frollo & Esmeralda
41. On Bright Morning You Danced - Frollo & Esmeralda
42. Free Today - Quasimodo, Clopin, Esmeralda, Gringoire & hợp xướng
43. Moon - Gringoire
44. This Small Whistle I Leave You - Quasimodo & Esmeralda
45. God You Made the World All Wrong - Quasimodo
46. Live - Esmeralda
47. Attack of Notre-Dame - Clopin, Frollo, Phœbus, Esmeralda, Gringoire & hợp xướng
48. By Royal Law - Phœbus & hợp xướng
49. Master and Saviour - Quasimodo & Frollo
50. Give Her to Mme - Quasimodo
51. Dance my Esmeralda - Quasimodo
52. Dance my Esmeralda (hợp ca) - Dàn nhạc giao hưởng
53. The Age of the Cathedrals (hợp ca) - Gringoire & Ensemble

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Nhà thờ Đức Bà Paris_** () là vở nhạc kịch tiếng Pháp công diễn vào ngày 16 tháng 9 năm 1998 tại Cung Hội nghị Paris, Pháp. Vở này dựa trên tiểu thuyết cùng tên
**_Nhà thờ Đức Bà Paris _** (, 1831) là tiểu thuyết của văn hào Pháp Victor Hugo. Tác phẩm ra đời xuất phát từ việc tác giả muốn viết một cuốn tiểu thuyết về ngôi
**Thằng gù ở nhà thờ Đức Bà** (tiếng Anh: _The Hunchback of Notre Dame_) là một phim hoạt hình thứ 34 của hãng hoạt hình Walt Disney vào năm 1996, được công chiếu vào ngày
**_Bóng ma trong nhà hát_** () là một vở nhạc kịch do Andrew Lloyd Webber soạn nhạc, Charles Hart viết lời, Lloyd Webber và Richard Stilgoe đồng viết kịch bản. Dựa trên cuốn tiểu thuyết
**_Những người khốn khổ_** (tiếng Pháp: _Les Misérables_, , hay còn được gọi là **_Les Mis_** ) là một vở nhạc kịch xuất xứ từ Pháp, chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên năm 1862
**Victor-Marie Hugo** (; (26 tháng 2, 1802 - 22 tháng 5, 1885 tại Paris) là một chính trị gia, thi sĩ, nhà văn, và kịch gia thuộc chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng của Pháp.
**Palais Garnier** ( tiếng Pháp) ("Cung điện Ganier") là một nhà hát opera với 1.979 chỗ ngồi, được xây dựng từ năm 1861 đến năm 1875 cho đoàn Opera Paris. Ban đầu, nhà hát được
nhỏ|[[Đại lộ Champs-Élysées]] **Du lịch Paris** là một trong những ngành kinh tế quan trọng không chỉ của thành phố Paris mà còn cả nước Pháp vì Paris được mệnh danh là trung tâm châu
thumb|Joachim Beuckelaer, 'Nhà thổ', 1562 thumb|Nhà thổ Pascha ở Cologne, Đức, là nhà thổ lớn nhất châu Âu. Trong [[World Cup FIFA 2006, hình ảnh có cờ Ả Rập Xê Út và cờ Iran đã
"**Belle**" (bằng tiếng Pháp, tạm dịch: "Người đẹp") là bài hát tiếng Pháp ra mắt năm 1997 qua phần thể hiện của các ca sĩ Patrick Fiori, Daniel Lavoie và Garou, trích từ vở nhạc
Giáo hội Công giáo dành một sự tôn kính đặc biệt cho **Maria** (mẹ của Chúa Giêsu). Điều này được dựa trên những quy điển của Kinh Thánh về màu nhiệm nhập thể của Con
**Âm nhạc thời Trung cổ** là những tác phẩm âm nhạc phương Tây được viết vào thời kỳ Trung cổ (khoảng 500–1400). Thời kỳ này bắt đầu với sự sụp đổ của Đế chế La
thumb|Tháp Eiffel **Tháp Eiffel** (tiếng Pháp: **Tour Eiffel**) là một công trình kiến trúc bằng thép nằm trên công viên Champ-de-Mars, cạnh sông Seine, thủ đô Paris nước Pháp. Vốn có tên nguyên thủy là
nhỏ|Ngọn hải đăng ở nơi tận cùng thế giới được coi là một trong những tiểu thuyết hay nhất trong giai đoạn văn học của Verne. **Jules Gabriel Verne** (; ; 8 tháng 2 năm
**Caterina de' Medici** (; – ), hoặc **Catherine de Médicis** theo tiếng Pháp, là một nữ quý tộc người Ý và trở thành Vương hậu nước Pháp từ năm 1547 đến năm 1559, với tư
**Napoléon II** (_Napoléon François Joseph Charles Bonaparte_; 20 tháng 3 năm 1811 – 22 tháng 7 năm 1832) là Hoàng đế Pháp (tranh chấp) trong vài tuần vào năm 1815. Là con trai của Hoàng
**Felipe V của Tây Ban Nha** (, ; 19 tháng 12 năm 1683 – 9 tháng 7 năm 1746) là Vua của Tây Ban Nha. Felipe lên ngôi hai lần. Lần thứ nhất từ ngày
**_Van Helsing: Khắc tinh ma cà rồng_** (tựa gốc tiếng Anh: **Van Helsing**) là một bộ phim kinh dị hành động Mỹ năm 2004 được viết kịch bản và đạo diễn bởi Stephen Sommers. Phim
Dưới đây là danh sách và thông tin về các chương trình Paris By Night được sản xuất và phát hành lần đầu trong thập niên 1990. Các chương trình được phát hành dưới dạng
Paris By Night do ông Tô Văn Lai sáng lập sau năm 1975. Cuốn video số 1 sản xuất và phát hành tại Paris, Pháp. Dưới đây là danh sách và thông tin về các
Dưới đây là danh sách và thông tin về các chương trình Paris By Night được sản xuất và phát hành lần đầu trong thập niên 2000. Kể từ Paris by Night 67, chương trình
Paris By Night do ông Tô Văn Lai sáng lập vào năm 1983. Cuốn video số 1 sản xuất và phát hành tại Paris, Pháp. Dưới đây là danh sách và thông tin về các
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
**Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan** ()**,** là một quốc gia ở Trung và Đông Âu, tồn tại từ ngày 7 tháng 10 năm 1918 đến ngày 6
**Paris Whitney Hilton** (sinh ngày 17 tháng 2 năm 1981) là ngôi sao truyền hình thực tế, doanh nhân, người mẫu và ca sĩ người Mỹ. Cô là cháu cố của Conrad Hilton, người sáng
nhỏ| Một vũ hội của người Digan **Người Digan** hoặc **người Rom** là một dân tộc thuộc nhóm sắc tộc Ấn-Arya, sống thành nhiều cộng đồng ở tại các quốc gia trên khắp thế giới.
**Lara Fabian**, tên thật là **Lara Sophie Katy Crokaert** (sinh ngày 9 tháng 1 năm 1970), là một nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Bỉ-Canada. Cô sinh ra ở Etterbeek, Bruxelles và có
File:2019 collage v1.png|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Các cuộc biểu tình ở Hồng Kông 2019–2020 đã biến thành bạo loạn lan rộng và bất tuân dân sự; Hạ viện Hoa Kỳ bỏ
**Nhạc hải ngoại** là một khái niệm thường được dùng để chỉ nền âm nhạc do các nghệ sĩ gốc Việt sáng tác, trình bày tại hải ngoại. Nền âm nhạc hải ngoại bao gồm
**Âm nhạc Việt Nam** là hệ thống tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam. Đây là một phần của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Âm nhạc Việt Nam phản ánh những nét đặc
Theo chiều kim đồng hồ, từ trên cùng bên trái: Lãnh tụ [[Ali Khamenei chủ trì lễ cầu nguyện cho nhà lãnh đạo Hamas Ismail Haniyeh sau khi ông bị ám sát; Biểu tình chống
**Liên hoan phim Cannes** (tiếng Pháp: _le Festival international du film de Cannes_ hay đơn giản là _le Festival de Cannes_) là một trong những liên hoan phim có uy tín nhất thế giới, được
phải **Kịch** là một môn nghệ thuật sân khấu, một trong ba phương thức phản ánh hiện thực của văn học. Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là "hành động",
**_Cây sáo thần_** (, ) là một vở nhạc kịch có kí hiệu K. 620 gồm hai chương của soạn giả Wolfgang Amadeus Mozart, được công diễn lần đầu tại nhà hát Theater auf der
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
Đây là danh sách các sáng tác của nhạc sĩ **Phạm Duy** được lấy từ trang web chính thức của nhạc sĩ. Các bài hát được xếp theo thứ tự thời gian do chính Phạm
thumb|Nguyên bản của [[Quốc kì Đức: Cổ vũ cho cuộc cách mạng ở Berlin, ngày 19 tháng 3, 1848]] **Cách mạng 1848 – 1849** tại các bang nói tiếng Đức, giai đoạn mở đầu còn
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
Toán học trong nghệ thuật: Bản khắc trên tấm đồng mang tên _[[Melencolia I_ (1514) của Albrecht Dürer. Những yếu tố liên quan đến toán học bao gồm com-pa đại diện cho hình học, hình
Tập tin:Germany film clapperboard.svg **Điện ảnh Đức** là nền nghệ thuật và công nghiệp điện ảnh của Đức. Ra đời từ cuối thế kỉ 19, cho đến nay điện ảnh Đức đã có nhiều đóng
**Métro Paris** (hay gọi là **Métro de Paris** hoặc **Métro parisien**) là hệ thống tàu điện ngầm phục vụ thành phố và vùng đô thị Paris. Tính cho đến năm 2007, hệ thống này có
Các chiến binh Công giáo chiếm đóng Jerusalem trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. **Giai đoạn giữa Trung Cổ** là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ
**Âm nhạc thời Phục Hưng** là âm nhạc được viết tại Châu Âu trong thời kỳ Phục Hưng. Các nhà nhạc sử học – với những bất đồng đáng kể – đều thống nhất cho
**Jean-Francois Le Sueur** (hay **Lesueur**) (1760-1837) là nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nhà phê bình âm nhạc, nhà sư phạm người Pháp. ## Cuộc đời và sự nghiệp Jean-Francois Le Sueur học âm nhạc khi
**Nhạc tiền chiến** là dòng nhạc đầu tiên của tân nhạc Việt Nam mang âm hưởng trữ tình lãng mạn xuất hiện vào cuối thập niên 1930. Các ca khúc tiền chiến thường có giai
**Louvre** (, phát âm là _Lu-vơ_), hoặc **Viện bảo tàng Louvre** ( ), là một viện bảo tàng nghệ thuật và di tích lịch sử tại Paris, Pháp. Có vị trí ở trung tâm lịch
Mô hình [[động cơ hơi nước của James Watt. Sự phát triển máy hơi nước khơi mào cho cuộc cách mạng công nghiệp Anh.]] **Cuộc cách mạng công nghiệp** hay còn gọi là **Cách mạng
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
[[Caspar David Friedrich, _Kẻ lãng du trên biển sương mù,_ 38.58 × 29.13 inches, 1818, tranh sơn dầu, Kunsthalle Hamburg]] [[Eugène Delacroix, _Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân_ 1830]] Théodore Géricault, _[[Chiếc bè
**Lịch sử thế giới** (còn gọi là **lịch sử loài người** và **lịch sử nhân loại**) là ghi chép về hành trình phát triển của nhân loại từ thời tiền sử cho đến hiện tại.