phải|nhỏ|Cờ của Shah [[Tahmasp I]]
Nhà Safavid (Tiếng Ba Tư: Safaviyan صفویان; Tiếng Azeri:صفوی, Səfəvilər) là một triều đại đã cai trị lãnh thổ Iran ngày nay, cùng nhiều vùng phụ cận từ khoảng năm 1501 đến năm 1736. Họ thường hay giao chiến với nhà Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ và người Uzbek.
Theo tiếng Ba Tư, Safaviyan là một danh từ, chỉ định triều đại, còn Safavi là tính từ, có nghĩa là thuộc về gia đình Safavid. Tiếng Anh thường viết Safavi dynasty (triều đại của gia đình Safavid) hay Safavid dynasty, khiến Safavi thường được coi là tên của triều đại. Trong các sách tiếng Pháp, tên triều đại này được thường thấy nhất dưới dạng Séfévide (phát âm Xê-fê-viđ). Tuy nhiên, người Ba Tư vùng Tehran - Isfahan phát âm là Safaviyan (Xa-fa-vi-dan). Ở Việt Nam, tên Safavid thông dụng nhất.
Họ Safavid là một thuộc tộc người Iran lai các chủng tộc Azeri (của Azerbaijan) và Kurd, theo hệ phái Shi'ite của Hồi giáo ở Iran. Vào đầu thế kỷ 16, khoảng năm 1501 một thủ lĩnh của họ là Ismail I trở thành Shah, thành lập triều đại Safavid ở Tabriz, bắt đầu đế quốc Ba Tư thứ ba. Họ Safavid đã tiến hành chiến tranh với đế quốc Ottoman, và chinh phạt được một số bộ lạc người Thổ ở phía Tây và Bắc, đe dọa bành trướng đến Thổ. Sultan của đế quốc Ottoman, Selim I đã động binh đánh bại quân Safavid tại Chaldiran năm 1514 và sáp lập cao nguyên Iran vào lãnh thổ. Vị vua nổi tiếng nhất của đế quốc Safavid là Abbas I, người đã khuyến khích giao thương với châu Âu, đánh thắng người Thổ, Uzbek và mở mang bờ cõi. Tuy nhiên, đế chế suy yếu sau khi Abbas I qua đời vào năm 1629. Đế quốc này cuối cùng cũng phải chịu quy phục người Afghanistan vào năm 1722. Trong các năm 1722-1725, đất nước Ba Tư cũng bị quân đội Nga xâm lăng đồng thời quân Ottoman cũng tràn sang các tỉnh phía tây và phía bắc.
Bấy giờ, có một quân nhân tên Nader Quli đã cứu nguy cho nhà Safavid, đánh bại mọi sắc dân người Afghan, Nga và Thổ. Cho đến năm 1736, ông lật đổ được vua Safavid cuối cùng là Abbas III, thành lập nhà Afsharid.
Các vị vua
Shah Ismail I
trái|Bức tranh nhan đề Shah Ismail I, do môn đồ của [[Gentile Bellini, thế kỷ 16, Uffizi Gallery, Florence]]
Xuất thân của Shah Ismail, người lập ra triều đại, còn trong vòng tranh luận: ông không nói tiếng của nòi giống ông, và từ nhỏ ông đã thạo hai thứ tiếng. Vài học giả cho rằng ông lai các chủng tộc Turkic, Iran, và Hy Lạp vùng Pontik,, Shahanshah của toàn Iran rồi cho đúc tiền tên ông, tuyên bố hệ phái Shi’a là tôn giáo chính thức trong lãnh thổ của ông.
Một năm sau chiến thắng ở Tabriz, Ismail tuyên cáo rằng phần lớn Ba Tư là lãnh thổ của ông, và trong vòng 10 năm lập được kiểm soát hoàn toàn trên các vùng đất này. Ngay các vua nhà Ottoman cũng đã chào ông là: vua của các vùng đất Ba Tư, truyền nhân của vua Jamshid và Kaykhusraw. Thành Hamadan, cố đô của đế quốc Media rơi vào tay ông năm 1503, các thành Shiraz và Kerman năm 1504, Najaf và Karbala ở Iraq năm 1507, tỉnh Van năm 1508, Baghdad năm 1509, và Herat (Afghanistan), cũng như phần lớn miền Đại Khorasan, năm 1510. Năm 1511, người Uzbek phía đông bắc, do khả hãn Muhammad Shaybani lãnh đạo, bị ông đánh đuổi chạy xa về phía bắc, qua bên kia sông Oxus. Người Uzbek sau đó thỉnh thoảng vẫn tấn công vào Khorasan, nhưng đế quốc Safavid giữ được vùng này.
Văn hóa
Gia đình Safavid là một gia đình biết chữ từ nguồn gốc ban đầu của nó. Có thơ Tati và Ba Tư còn sót lại từ Shaykh Safi ad-din Ardabili cũng như thơ Ba Tư còn sót lại từ Shaykh Sadr ad-din. Hầu hết các bài thơ còn nguyên vẹn của Shah Ismail I đều có bút danh Tiếng Azerbaijan của Khatai. Sam Mirza, con trai của Shah Ismail cũng như một số tác giả sau này khẳng định rằng Ismail đã sáng tác thơ cả bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Ba Tư nhưng chỉ có một vài mẫu vật của câu thơ Ba Tư của ông còn sót lại. Một tập thơ của ông ở Azeri đã được xuất bản dưới dạng Divan. Shah Tahmasp, người đã sáng tác thơ bằng tiếng Ba Tư cũng là một họa sĩ, trong khi Shah Abbas II được biết đến như một nhà thơ, viết thơ Azerbaijan. Sam Mirza, con trai của Ismail I là một nhà thơ và sáng tác thơ bằng tiếng Ba Tư. Ông cũng biên soạn một tuyển tập thơ đương đại.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|nhỏ|Cờ của Shah [[Tahmasp I]] **Nhà Safavid** (Tiếng Ba Tư: Safaviyan صفویان; Tiếng Azeri:صفوی, Səfəvilər) là một triều đại đã cai trị lãnh thổ Iran ngày nay, cùng nhiều vùng phụ cận từ khoảng năm
**Abbās I** (tức **Abbās Đại đế**, 27 tháng 1 năm 1571 tại Herat – 19 tháng 1 năm 1629) là vua thứ năm của vương triều Safavid trong lịch sử Ba Tư. Ông thường được
**Shāh Ismā'il Abu'l-Mozaffar bin Sheikh Haydar bin Sheikh Junayd Safawī** (17 tháng 7, 1487 – 23 tháng 5, 1524) là Shah của Ba Tư (Iran ngày nay), người đã sáng lập ra triều đại Safavid,
**Tahmasp I** (3 tháng 3 năm 1514 – 1576) là vị shah (hoàng đế) thứ hai của Ba Tư thuộc vương triều Safavid. Triều đại ông cho thấy nhiều cuộc tấn công của các lân
**Shah Abbas II** (1633-1666) là vua Ba Tư từ năm 1642 tới năm 1666. Ông là vị quân vương thứ 7 của triều đại Safavid. Ông là con trai của Safi và có tên là
**Ismail III** là vị vua thứ mười ba của nhà Safavid nước Ba Tư. Ismail là cháu của vị vua cuối cùng của nhà Safavid. Năm 1750, thủ lĩnh của bộ lạc Zand là Karim
**Soltan Hosein** (hay **Soltan Hosayn**) (1668?-1726) là một vị vua nhà Safavid của Ba Tư (nay là Iran). Ông trị vì từ năm 1694 tới khi bị hạ bệ năm 1722 trong cuộc nổi dậy
**Ismail II** là vua của triều đại Safavid nước Ba Tư, cầm quyền từ năm 1576 đến 1578. Mặc dù thường được lịch sử ghi nhận là người kế vị của phụ vương Tahmasp I,
**Shah Safi** là vua Ba Tư từ năm 1629 tới 1642. Safi là vị quốc vương thứ sáu của nhà Safavid và là cháu nội của vua Shah Abbas. Vua ông nội Abbas I có
**Safi II** (sau là **Suleyman I**) là vua thứ 8 của nhà Safavid nước Ba Tư, trị vì từ 1666 đến 1694. Ông là con trai trưởng của tiên vương Abbas II và Nakihat Khanum,
**Đế quốc Bồ Đào Nha** () là đế quốc ra đời sớm nhất và kéo dài nhất trong lịch sử những đế quốc thực dân Châu Âu, kéo dài gần 6 thế kỷ, bắt đầu
**Quần thể Sheikh Safi al-din Khānegāh và đền thờ** () là quần thể kiến trúc nằm tại Ardabil, Iran. Đây là lăng mộ của Sheikh Safi-ad-din Ardabili, một nhà lãnh đạo Hồi giáo Sufi nổi
**Danh sách dưới đây bao gồm các quân chủ** của các triều đại chính thức đã từng cai trị trên mảnh đất thuộc về Iran ngày nay. Lịch sử Iran, ban đầu, trong suốt một
**Suleiman I** (; ; 6 tháng 11 năm 14946 tháng 9 năm 1566) là vị Sultan thứ 10 và trị vì lâu nhất của đế quốc Ottoman, từ năm 1520 cho đến khi qua đời
**Chiến tranh Ottoman-Safavid (1623 – 1639)** là cuộc chiến cuối cùng trong một chuỗi chiến tranh giữa đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ) và đế quốc Safavid (Ba Tư), hai quốc gia hùng mạnh nhất
**Nāder Shāh Afshār** (hoặc **Nadir Shah**) (tháng 11 năm 1688 hoặc 6 tháng 8 năm 1698 – 19 tháng 6 năm 1747) làm vua Ba Tư trị vì từ năm 1736 tới 1747. Nader Shah
**Tahmasp II** (sinh khoảng 1704 - mất 1740) là vị vua áp chót của vương triều Safavid xứ Ba Tư (Iran). Tahmasp là con trai của Soltan Hosein. Khi Hosein bị quân Afghanistan hạ bệ
**Mohammed Khodabanda** là vị vua thứ tư của triều đại Safavid ở Đế chế Ba Tư (1578-1588). Mohammed Khodabanda là con trai của Tahmasp I. Mohammed Khodabanda lên ngôi quốc vương năm 1578 sau khi
thumb|[[Al-Masjid an-Nabawi ở Medina, một trong những nhà thờ Hồi giáo linh thiêng nhất]] **Thánh đường Hồi giáo**, **giáo đường Hồi giáo** hay **nhà thờ Hồi giáo** ( — , số nhiều: _masājid_, — ;
Dưới đây là **danh sách các nhà lãnh đạo nhà nước vào thế kỷ 18** (1701–1800) sau Công nguyên, ngoại trừ các nhà lãnh đạo trong Đế chế La Mã Thần thánh và các nhà
**Nhà Timur** (), tự xưng là _Gurkānī_ (), là một triều đại Ba Tư hóa trị vì **Đế quốc Timur** gồm toàn cõi Iran, Afghanistan ngày nay, Trung Á, cũng như nhiều phần đất
**Mohammad Karim Khan Zand**, (khoảng 1705 – 1779), cũng được gọi là **Karim Khan Đại đế (Bozorg)**, là một nhà lãnh đạo nắm quyền hành trên thực tế (de facto) của Ba Tư từ năm
**Nasser al-Din Shah Qajar**, (16 tháng 6 năm 1831-1 tháng 5 năm 1896) là vị vua thứ tư của nhà Qajar của Ba Tư, trị vì từ 17 tháng 9 năm 1848 cho đến 1
Sultan **Osman II** hoặc **Othman II** (có biệt hiệu là **Genç Osman** trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ) (3 tháng 11 năm 1604 – 20 tháng 5 năm 1622) là vị hoàng đế thứ 16 của
**Murad III** (, ; 4 tháng 7 năm 1546 – 15 tháng 1 năm 1595) là sultan của đế quốc Ottoman, trị vì từ năm 1574 đến năm 1595. ## Tiểu sử Murad đã ra
**Selim II** (, ; 28 tháng 5 năm 1524 12/15 tháng 12 năm 1574), còn gọi là **Selim Tóc vàng** () hoặc **Selim Bợm rượu** (), là sultan của Đế quốc Ottoman từ năm 1566
**Lịch sử Iran** hay còn được gọi là **lịch sử Ba Tư**, là lịch sử bao gồm nhiều đế quốc khác nhau trong suốt nhiều thiên niên kỷ qua tại Cao nguyên Iran và các
**Quảng trường Naqsh-e Jahan** ( _Maidān-e Naghsh-e Jahān_; dịch là: "Hình ảnh của Quảng trường Thế giới"), còn được gọi là **Quảng trường Shah** (میدان شاه) hoặc **Quảng trường Imam** là một quảng trường nằm
**Armenia**, quốc hiệu là **Cộng hoà Armenia**, là một quốc gia nội lục ở phía nam Kavkaz thuộc khu vực Tây Nam Á, giáp Thổ Nhĩ Kỳ ở phía tây, Gruzia ở phía bắc, Azerbaijan
**Afghanistan** ( ; Pashto / Dari: , ; (), tên gọi chính thức là **Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan** là một quốc gia miền núi không giáp biển ở ngã tư Trung và Nam
**Phục bích** (), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), thường được gọi ngắn là **Thổ**, là một quốc gia xuyên lục địa, phần lớn nằm tại Tây
**Thái hậu** (chữ Hán: 太后; tiếng Anh: _Queen Dowager_, _Queen Mother_, _Empress Dowager_ hoặc _Empress Mother_) là một tước hiệu, danh từ để chỉ mẹ hoặc bà nội của vua tại các quốc gia Hán
nhỏ|Thập niên 1970 **Thập niên 1720** là thập niên diễn ra từ năm 1720 đến 1729. ## Chính trị và chiến tranh ### Chiến tranh * Chiến tranh Dummer ở Maine (1722) * Chiến tranh
**Đế quốc Nga** () là một quốc gia tồn tại từ năm 1721 đến khi Chính phủ lâm thời lên nắm quyền sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917. Là đế quốc lớn thứ
Lăng Hùng Vương trên núi Nghĩa Lĩnh.|thế= **Triều đại**, **hoàng triều**, hay **vương triều**, thường là danh từ để gọi chung hai hay nhiều vua chúa của cùng một gia đình nối tiếp nhau trị
**Các tu viện Armenia của Iran** nằm tại tỉnh Tây Azerbaijan và Đông Azarbaijan là tổ hợp 3 nhà thờ Armenia được xây dựng trong khoảng thời gian giữa thế kỷ thứ 7 và 14
**Ahmad Shāh Durrānī** (khoảng 1723 – 1773) (احمد شاه دراني), còn gọi là **Ahmad Shāh Abdālī** (احمد شاه ابدالي) và tên khai sinh là **Ahmad Khān Abdālī**, là vị vua đầu tiên của đế quốc
**Hãn quốc Y Nhi**, (, _Hülegü-yn Ulus_, , _Ilxānān_, chữ Hán: 伊兒汗國), còn dịch là **hãn quốc Y Lợi** (伊利汗国) hoặc **hãn quốc Y Nhĩ** (伊尔汗国), là một hãn quốc của người Mông Cổ thành
thumb|Registan và 3 [[madrasa của nó. Từ trái qua phải: Madrasa Ulugh Beg, Madrasa Tilya-Kori và Madrasa Sher-Dor.]] **Registan** là trung tâm của thành phố cổ Samarkand ở Uzbekistan, được xây dựng dưới triều đại
**Yazd** (, ), trước đây gọi là **Yezd**, là thủ phủ của tỉnh Yazd, Iran. Thành phố nằm cách Isfahan khoảng 270 km (170 dặm). Dân số của thành phố năm 2011 là 486.152 người. Năm
**Diệt chủng Armenia** () là những cuộc thảm sát và thanh lọc sắc tộc có hệ thống với người dân tộc Armenia ở Tiểu Á và các vùng lân cận, được thực hiện bởi Đế
**Murad IV** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _IV. Murat_) (16 tháng 6 năm 1612 – 9 tháng 2 năm 1640) là vị hoàng đế thứ 17 của Đế quốc Ottoman từ năm 1623 tới 1640, được
**Đế quốc Durrani** (tiếng Pashtun: د درانیانو واکمني), còn gọi là **Đế quốc Afghanistan** (), được thành lập và xây dựng bởi Ahmad Shah Durrani. Vào thời kỳ đỉnh cao, lãnh thổ đế chế trải
**Azerbaijan** (phiên âm tiếng Việt: **A-déc-bai-gian** hoặc **A-déc-bai-dan**, tiếng Azerbaijan: _Azərbaycan_), tên gọi chính thức là **Cộng hòa Azerbaijan**, là một quốc gia nằm tại khu vực Tây Á và thuộc vùng Kavkaz của lục
**Babur** (; 14 tháng 2 năm 148326 tháng 12 năm 1530), tên thật là **Ẓahīr-ud-Dīn Muhammad** (), là một nhà chinh phạt từ Trung Á. Dù ban đầu ông đã nhiều lần gặp thất bại,
Quốc gia Georgia (tiếng Gruzia: საქართველო sak'art'velo) lần đầu tiên được thống nhất như một vương quốc dưới triều đại Bagrationi trong thế kỷ 9 đến thế kỷ thứ 10, phát sinh từ các quốc
Dưới đây là danh sách** các triều đại hồi giáo Shi'a** ## Ai Cập và Bắc Châu Phi * Idrisid (780–985) * Nhà Fatimid (909–1171) the Fatimids were Ismaili, Shia. * Banu Kanz (1004–1412) ##
**Cộng hòa tự trị Nakhchivan** () là một lãnh thổ tách rời không giáp biển của Cộng hòa Azerbaijan. Khu vực có diện tích 5.500—xem giữa là các thời kỳ cai trị người Ả Rập
**Muhi ud-din Muhammad Aurangzeb Bahadur Alamgir I**, được biết phổ biến hơn với tên gọi **Aurangzeb** ( (tước hiệu đầy đủ: _Al-Sultan al-Azam wal Khaqan al-Mukarram Abul Muzaffar Muhi ud-din Muhammad Aurangzeb Bahadur Alamgir I,