✨Nhà hát Odéon

Nhà hát Odéon

nhỏ|Nhà hát Odéon Nhà hát Odéon (tiếng Pháp: Théâtre de l'Odéon, còn có tên Théâtre de l'Europe) nằm ở Quận 6 thành phố Paris. Công trình được xây dựng trong khoảng thời gian từ 1779 đến 1782 theo phong cách kiến trúc Cổ điển mới, dành cho đoàn kịch Comédie-Française. Vào thế kỷ 19 Odéon trở thành một trong những nhà hát danh tiếng của Paris nhờ sự có mặt của nhiều diễn viên danh tiếng, trong đó có huyền thoại Sarah Bernhardt. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhà hát tiếp tục giữ vai trò trung tâm của kịch nghệ nhờ những vở diễn của các tác giả như Samuel Beckett, Marguerite Duras.

Odéon ngày nay là một trong năm nhà hát quốc qua Pháp. Với sức chứa 800 chỗ ngồi, nhà hát đón khoảng 70 ngàn khán giả mỗi năm. Ngoài nhà hát chính ở khu phố Saint-Germain-des-Prés, Odéon còn một phòng biểu diễn ở Quận 17.

Nhà hát Odéon

Odéon nằm ở số 2 phố Corneille, khu vực tập trung nhiều nhà hát của thành phố. Mặt trước của công trình, một hàng cột thẳng đứng đặc trưng cho phong cách Cổ điển mới. Bên trong, sảnh hình vuông cũng được trang trí các cột và hai cầu thang đối xứng ở hai bên. Phòng trình diễn mang hình elip là tác phẩm của kiến trúc sư Jean-François-Thérèse Chalgrin khi nhà hát được sửa chữa sau vụ cháy năm 1799. Trần nhà hát được André Masson trang trí lại vào năm 1965 với chủ đề thần Apollon cùng các nhận vật nổi tiếng của nghệ thuật sân khấu.

Bên cạnh nhà hát ở Saint-Germain-des-Prés, Odéon có thêm phòng biểu diễn Ateliers Berthier ở đại lộ Berthier, Quận 17. Công trình này vốn là một nhà kho được kiến trúc sư Charles Garnier cho xây dựng năm 1895, phục vụ cho Nhà hát quốc gia Paris. Tới năm 2003, Ateliers Berthier được sửa chữa lại và mở cửa đón tiếp công chúng. Từ 2006, phòng trình diễn này được về Odéon.

Tổng cộng Odéon hiện nay có khoảng 120 nhân viên, mỗi năm tổ chức gần 300 buổi trình diễn. Năm 2007, nhà hát ở chính ở Saint-Germain-des-Prés đón 71.116 khán giả. Ateliers Berthier với 395 chỗ cũng đón 45.409 lượt khán giả

Lịch sử

Thế kỷ 17

Nhà hát thời kỳ [[Cách mạng Pháp]] Từ năm 1687, đoàn kịch Théâtre-Français chuyển về một căn phòng trên phố Ancienne Comédie. Vì địa điểm quá hẹp, vào năm 1767, Hầu tước Marigny yêu cầu hai kiến trúc sư Marie-Joseph Peyre và Charles de Wailly xây dựng một nhà hát trên khu đất của Thân vương xứ Condé. Nhưng phải sau chiến tranh, tới năm 1780, Bá tước Provence mới đặt viên đá đầu tiên bắt đầu cho việc thi công công trình. Trong khoảng thời gian này, đoàn kịch trú tạm trong căn phòng Salle des Machines của cung điện Tuileries.

Ngày 9 tháng 4 năm 1782, Maria Antonia của Áo khánh thành "Ngôi đền mới mà sự hào hiệp của hoàng gia dựng nên dành cho vinh quang của nghệ thuật sân khấu". Đoàn kịch Théâtre-Français chuyển tới nhà hát Odéon nhưng vẫn giữ cái danh nghĩa trước đó: Comédiens ordinaires du Roi, tức Đoàn kịch của nhà vua. Tại Odéon, ngày 27 tháng 4 năm 1784, vở Le Mariage de Figaro của Beaumarchais được trình diễn trước Maria Antonia và hoàng gia.

Vào thời kỳ Cách mạng Pháp, Théâtre-Français bị tách làm hai. Diễn viên Talma cùng những người cộng hòa bỏ về nhà hát tại Palais-Royal bên hữu ngạn. Năm 1793, vở L'Ami des Lois của nhóm ở lại bị cấm. Tiếp theo đó, tới vở Pamela ou la Vertu récompensée của François de Neufchâteau thì nhà hát phải đóng cửa, nhiều diễn viên bị bắt. Ngày 27 tháng 6 năm 1794, đoàn kịch mới mang tên Théâtre Égalité, tức Sân khấu bình đẳng, "bởi nhân dân và vì nhân dân" được thành lập. Nhưng sau khi Maximilien de Robespierre bị xử chém ngày 28 tháng 7 năm 1794, các diễn viên bị bắt lại quay về Odéon. Sự bất đồng giữa hai nhóm diễn viên khiến đoàn kịch phải giải tán vào tháng 12 năm đó.

Tới năm 1796, Théâtre-Français lấy tên Odéon, xuất phát từ Odeum, có nghĩa nơi dành cho ca hát. Quyết định ngày 13 tháng 7 năm 1796 của Ban đốc chính giao Théâtre-Français cho nhà thầu Poupart-Dorfeuille et Cie để thành lập một nhà hát quốc gia. Nhưng Poupart-Dorfeuille et Cie thất bại, hợp đồng được chuyển cho một chủ nhà băng cũ là Sageret. Théâtre-Français được chia làm hai, một phần thuộc về phố Loi và một phần ở lại Odéon.

Thế kỷ 19

Odéon khoảng năm 1829

Ngày 18 tháng 3 năm 1799, một đám cháy lớn thiêu chụi một phần Odéon. Kiến trúc sư Chalgrin nhận trách nhiệm sửa chữa và nhà hát mở cửa trở lại vào tháng 6 năm 1808 với tên Théâtre de Sa Majesté l'Impératrice et Reine, tức Nhà hát của Hoàng đế và Hoàng hậu. Nhưng tới ngày 20 tháng 3 năm 1818, Odéon lại bị cháy lần thứ hai. Các diễn viên phải chuyển tới phòng Favart trong 8 tháng. Pierre Thomas Baraguay, kiến trúc sự của Viện công khanh, xây dựng lại. Tháng 9 năm 1819, nhà hát hoàn thành và mang tên Second Théâtre-Français. Theo lệnh của Louis XVIII, Comédie-Française trở về Odéon.

Cuối thập niên 1820, một số vở kịch của Victor Hugo được trình diễn ở Odéon. Trong Ba ngày vinh quang của Cách mạng tháng Bảy 1830, nhà hát là một trong những trung tâm của cuộc nổi dậy. Thời kỳ Quân chủ tháng Bảy, ngoài Comédie-Française, một số gánh hát khác cũng trình diễn ở Odéon khiến nhà hát mang biệt danh Théâtre omnibus, tức Nhà hát hành khách. Tuy vậy, Odéon cũng gặt hái được một vài thành công nhờ các tên tuổi diễn viên như Marie Dorval, Rachel Félix... Ngày 15 tháng 8 năm 1866, Sarah Bernhardt bắt đầu khởi nghiệp tại Odéon với vai diễn Aricie trong Phèdre của Jean Racine. Sau khi phải đóng cửa trong thời kỳ Paris bị vây hãm cuối Chiến tranh Pháp-Phổ, Odéon mở cửa trở lại cùng với nền cộng hòa mới. Sarah Bernhardt lên tới đỉnh cao nhờ vở Ruy Blas của Victor Hugo.

Thế kỷ 20

Năm 1906, André Antoine trở thành giám đốc nhà hát, Odéon thay đổi bộ mặt. Phòng trình diễn của nhà hát được sửa chữa lại với 300 ghế ngồi sang trọng. Hệ thống điện cũng được lắp đặt. Cùng với đó, đoàn kịch của nhà hát cũng có những phát triển. Vở Julius Caesar của William Shakespeare được trình diễn cuối năm 1906 có sự tham gia của 500 diễn viên cùng 70 kỹ thuật viên. Nhưng tới năm 1914, do những khó khăn trong quản lý, André Antoine từ chức. Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhà hát vẫn có gắng duy trì các buổi trình diễn.

Năm 1930, nhà hát Odéon được sửa chữa lại toàn bộ. Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Paris bị chiếm đóng, Odéon phải đóng cửa vào tháng 8 năm 1944. Thời kỳ hậu chiến, nhà hát bắt đầu tìm lại được thành công. Trong những năm 1960, nhiều tác phẩm các những nhà viết kịch lớn được trình diễn ở Odéon: Oh les beaux jours của Samuel Beckett, Des journées entières dans les arbres của Marguerite Duras, Rhinocéros của Eugène Ionesco... Trong cuộc bạo động Tháng 5 năm 1968, các sinh viên chiếm lấy nhà hát. Sau khi vụ việc kết thúc, Odéon lại phải đóng cửa vài tháng để tu sửa.

Tới tháng 9 năm 1971, Odéon trở thành nhà hát quốc gia. Quyết định ngày 1 tháng 7 năm 1990, Odéon trở thành Nhà hát châu Âu, dành cho "những di sản kịch nghệ của châu Âu. Thư viện Jean-Louis Barrault hoàn thành năm 1995, dành cho độc giả tìm hiểu về nghệ thuật kịch với những lưu trữ đa dạng: hình ảnh, âm thanh, tài liệu.... Thập niên 2000, nhà hát được sửa chữa một lần nữa và mở cửa trở lại vào năm 2006. Odéon còn có thêm một phòng trình diễn nữa ở Quận 17.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Nhà hát Odéon **Nhà hát Odéon** (tiếng Pháp: _Théâtre de l'Odéon_, còn có tên _Théâtre de l'Europe_) nằm ở Quận 6 thành phố Paris. Công trình được xây dựng trong khoảng thời gian từ 1779
nhỏ|300x300px| Khán phòng rạp chiếu phim hiện đại ở [[Madrid, Tây Ban Nha ]] nhỏ|250x250px| Rạp chiếu phim Rodgers ở Poplar Bluff ở [[Missouri. Rạp chiếu phim theo phong cách Art Deco được khai trương
**Georges-Eugène Haussmann** (; 27 tháng 3 năm 180911 tháng 1 năm 1891), thường được gọi là **Nam tước Haussmann**, là một quan chức Pháp từng giữ chức tỉnh trưởng của Seine (1853–1870), được Hoàng đế
**Francisco de Asís Tárrega y Eixea**, thường gọi tắt là **Francisco Tárrega**, (21 tháng 11 năm 1852 - 15 tháng 12 năm 1909) là một nhà soạn nhạc, một tay chơi đàn guitar nổi tiếng
**Louis Hector Berlioz** (11 tháng 12 năm 1803 - 8 tháng 3 năm 1869) là một nhà soạn nhạc người Pháp thuộc trường phái lãng mạn, được biết đến nhiều nhất nhờ các bản _Symphonie
**Real Club Celta de Vigo** (; _Câu lạc bộ Hoàng gia Celta de Vigo_), thường được gọi là **Celta Vigo** hoặc đơn giản là **Celta**, là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Tây
[[Đại lộ Saint-Germain]] **Saint-Germain-des-Prés** là một khu phố thuộc Quận 6 thành phố Paris. Nằm bên bờ trái sông Seine, Saint-Germain-des-Prés là một khu phố cổ, từng là nơi tập trung nhiều nhà văn, nghệ
**Sarah Bernhardt** (; khoảng 22/23 tháng 10 năm 1844 – 26 tháng 3 năm 1923) tên khai sinh **Henriette Rosine Bernard** là một nữ nghệ sĩ sân khấu người Pháp. Được mệnh danh là giọng
**Fernand Joseph Désiré Contandin**, nghệ danh **Fernandel**. Là một diễn viên hài nổi bật từ trước và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều phim do ông diễn xuất đã trở thành những phim
**James Patrick Page** (sinh ngày 9 tháng 1 năm 1944) là một nhạc công, nhạc sĩ, nhà sản xuất thu âm người Anh, tay guitar chính và là người sáng lập ban nhạc rock Led
**_Những câu chuyện của Hoffmann_** (tên gốc tiếng Pháp: _Les contes d'Hoffmann_) là một vở opera của Jacques Offenbach. Các lời kịch bằng tiếng Pháp được viết bởi Jules Barbier, dựa trên những truyện ngắn
thumb|Liên hoan Shakespeare tại Gdańsk năm 2013 **Liên hoan Shakespeare tại Gdańsk ** là một liên hoan sân khấu quốc tế với ý tưởng của Nhà hát Elizabeth, và đặc biệt là các tác phẩm
**Mathilda Marie Berthilde Paruta** (21 tháng 11 năm 1907 - 7 tháng 12 năm 1999), được biết đến với cái tên **Darling Légitimus**, là một nữ diễn viên người Pháp. Năm 1983, bà nhận được
**_Harry Potter và Hội Phượng hoàng_**, hoặc **_Harry Potter và Mệnh lệnh Phượng hoàng_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Harry Potter and the Order of the Phoenix_**), là một bộ phim giả tưởng năm 2007 của
[[Sorbonne]] **Khu phố La Tinh** hay **Quận La Tinh** (tiếng Pháp: Quartier latin) là một khu phố thuộc Quận 5 thành phố Paris. Nằm ở tả ngạn sông Seine, khu phố trải dài về phía
|- |colspan=2 align="center" bgcolor="#FFFFFF" |Tập tin:Le-Procope.jpg |- | bgcolor="#FFE5B4" |**Quốc gia**|| |- | bgcolor="#FFE5B4" |**Thành phố**||Paris |- | bgcolor="#FFE5B4" |**Mở cửa**||Năm 1686 |- | bgcolor="#FFE5B4" |**Địa chỉ**||13, rue de l'Ancienne-Comédie
75006, Paris |- | bgcolor="#FFE5B4" |**Métro**||Odéon
**Quận 6** (còn có tên là **quận Luxembourg**, nhưng tên gọi này ít được dùng trong đời sống thường nhật) là một trong những quận trung tâm của Paris, nằm ở tả ngạn sông Seine.
**_Sòng bạc hoàng gia_** (tựa gốc ) là bộ phim đề tài gián điệp công chiếu năm 2006 và là phần thứ 21 trong loạt phim điện ảnh _James Bond_ của Eon Productions, cũng như
**_Born to Run_** là album phòng thu thứ ba của ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Bruce Springsteen. Với những nỗ lực trong việc tiếp cận dòng nhạc thị trường hơn, album đã
nhỏ|[[Đại lộ Champs-Élysées]] **Du lịch Paris** là một trong những ngành kinh tế quan trọng không chỉ của thành phố Paris mà còn cả nước Pháp vì Paris được mệnh danh là trung tâm châu
**Ephesus** (; Đền này có thể đã được xây dựng lại hoặc sửa chữa, nhưng điều này không chắc chắn, vì lịch sử sau đó của nó không được rõ ràng. Hoàng đế Constantinus Đại
**_Nàng tiên cá_** (tựa gốc tiếng Anh: **_The Little Mermaid_**) là một bộ phim điện ảnh Mỹ thuộc thể loại nhạc kịchphiêu lưukỳ ảo công chiếu vào năm 2023 do Rob Marshall làm đạo diễn
**München** (; ; ) là thủ phủ của tiểu bang Bayern, là thành phố lớn thứ ba của Đức sau Berlin và Hamburg và là một trong những trung tâm kinh tế, giao thông và
**María Rosa Gallo** (1921–2004) là một nữ diễn viên người Argentina. ## Sự nghiệp Sinh ra từ một người cha Calabria và người mẹ Tây Ban Nha vào ngày 20 tháng 12 năm 1921, Gallo
"**La cumparsita**" (tiếng Tây Ban Nha dịch ra tiếng Việt: "Cuộc diễu hành nhỏ") là một bản nhạc tango không lời được nhạc sĩ người Uruguay Gerardo Matos Rodríguez sáng tác vào năm 1916. Thực
**Mouna Noureddine** (, sinh ra **Saadia Oueslati**, ngày 23 tháng 1 năm 1939 tại Tunis), là một nữ diễn viên người Tunisia. Bút danh của Mouna Noureddine được đề xuất bởi Mohamed Hedi Remnissi, một
**_The Girl with the Dragon Tattoo_** (tạm dịch: _Cô gái có hình xăm rồng_) là một bộ phim neo-noir thể loại giật gân-tâm lý năm 2011 do David Fincher đạo diễn và Steven Zaillian chắp
**_Người Sắt 3_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Iron Man 3_**, viết cách điệu trên màn ảnh là **_Iron Man Three_**) là phim điện ảnh siêu anh hùng của Mỹ năm 2013 dựa trên nhân vật
**Yvette Andréyor** (nhũ danh **Yvette Louise Pauline Royé**, 6 tháng 8 năm 1891 – 30 tháng 10 năm 1962) là một nữ diễn viên người Pháp nổi tiếng nhất trong kỷ nguyên phim câm với
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
**John Michael** "**Ozzy**" **Osbourne** (sinh ngày 3 tháng 12 năm 1948 – 22 tháng 7 năm 2025) Osbourne bị sa thải khỏi Black Sabbath vào năm 1979 do dính dáng đến các vấn đề ma
**Âm nhạc Việt Nam** là hệ thống tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam. Đây là một phần của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Âm nhạc Việt Nam phản ánh những nét đặc
**Nhạc tiền chiến** là dòng nhạc đầu tiên của tân nhạc Việt Nam mang âm hưởng trữ tình lãng mạn xuất hiện vào cuối thập niên 1930. Các ca khúc tiền chiến thường có giai
**_Take It, Boy_** là một ban nhạc Anh quốc bao gồm 5 thành viên Gary Barlow, Howard Donald, Jason Orange, Mark Owen và Robbie Williams, trong đó Gary đóng vai trò là ca sĩ chính
**_Wonder Woman: Nữ thần chiến binh_** (tên gốc tiếng Anh: **_Wonder Woman_**) là một bộ phim siêu anh hùng của Mỹ dựa trên nhân vật cùng tên của DC Comics. Phim được phân phối bởi
**Henry Olusegun Adeola Samuel** (sinh ngày 19 tháng 2 năm 1963), được biết đến với nghệ danh **Seal**, là một nhạc sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ người Anh. Anh đã bán được hơn 20 triệu
**_Avatar: Dòng chảy của nước_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Avatar: The Way of Water_**) là một bộ phim khoa học viễn tưởng sử thi của Mỹ năm 2022 do James Cameron đạo diễn, người đồng
**_Alchemy: Dire Straits Live_** là album thứ năm của ban nhạc rock Dire Straits đến từ Vương quốc Anh, phát hành vào năm 1984. Trong album này có những bài đang nổi tiếng của họ,
là một phim điện ảnh anime thể loại khoa học viễn tưởng sản xuất năm 1980 của đạo diễn Fukutomi Hiroshi, nằm trong loạt manga và anime _Doraemon_. Đây là phim chủ đề đầu tiên
**Anime tại châu Âu** phát triển mạnh mẽ trên sóng truyền hình; các quốc gia như Tây Ban Nha, Ý, Pháp trong thập niên 1970 và thập niên 1980 đã nhận một 'cuộc xâm lược