✨Born to Run

Born to Run

Born to Run là album phòng thu thứ ba của ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Bruce Springsteen. Với những nỗ lực trong việc tiếp cận dòng nhạc thị trường hơn, album đã gặt hái thành công vang dội về thương mại với thành tích giành được vị trí số 3 tại bảng xếp hạng Billboard 200 và bán được hơn 6 triệu bản chỉ riêng tại Mỹ. Cả hai đĩa đơn đi kèm album, "Born to Run" và "Tenth Avenue Freeze-Out" là 2 ca khúc bất hủ của Springsteen. Ngoài ra, "Thunder Road" và "Jungleland" là những ca khúc vẫn thường xuyên xuất hiện tại các buổi trình diễn của anh.

Born to Run được phát hành ngày 25 tháng 8 năm 1975 bởi Columbia Records, và nhanh chóng được coi là một trong những album nổi tiếng nhất của nền âm nhạc đại chúng. Ngày 14 tháng 11 năm 2005, nhân dịp 40 năm phát hành album, một ấn bản đặc biệt đã được phát hành bổ sung thêm 2 DVD phim tài liệu và phim hòa nhạc. Album còn được chỉnh âm một lần nữa vào năm 2014 bởi Bob Ludwig – người luôn cộng tác với Springsteen từ năm 1982 – và trở thành một phần trong tuyển tập boxset The Album Collection Vol. 1 1973–1984 bao gồm 7 album phòng thu đầu sự nghiệp của Springsteen. Sản phẩm sau đó cũng được chỉnh âm thành một đĩa đơn.

Thu âm

Springsteen tiến hành việc thực hiện album mới ngay sau khi hoàn thành album trước đó, The Wild, the Innocent and the E Street Shuffle, phát hành năm 1973. Anh có một ngân sách khổng lồ nhằm thực hiện một album hứa hẹn thành công về mặt thương mại, nên anh đã vô cùng quyết tâm dù rất khó khăn khi giam mình trong 4 bức tường của phòng thu. Sau khi bản thu nháp của "Born to Run" được phát hành qua sóng radio, rất nhiều người dự đoán Springsteen sẽ sớm phát hành album mới.

Born to Run ghi nhận nhiều cải tiến từ Springteen. Khác với Greetings from Asbury Park, N.J.The Wild, the Innocent and the E Street Shuffle, các ca khúc có nhiều cảm hứng từ cuộc sống ở New Jersey, cũng như từ những cố gắng đi tìm thứ âm nhạc đích thực cho người nghe. Anh cũng đã có nhiều đột phá trong ca từ, khi nam ca sĩ ví album như "nơi tôi bỏ đi những quan điểm thời thanh niên về tình yêu và tự do, một thứ ranh giới rõ ràng." Thêm vào đó, Springsteen cũng dày công chỉnh sửa ca khúc trong phòng thu hơn rất nhiều so với 2 album trước đó của mình. Album chiếm của Springsteen tới tận hơn 14 tháng thực hiện, trong đó riêng ca khúc "Born to Run" đã ngốn của anh ròng 6 tháng. Suốt quãng thời gian đó, anh đã trải qua cả những khoảnh khắc tức giận và thất vọng, và nói anh nghe được thứ âm thanh mà anh không thể giải thích được với mọi người trong phòng thu. Cũng lúc đó, Springsteen mời Jon Landau tới hỗ trợ việc thu âm và đây cũng là lúc anh kết thúc mối quan hệ với nhà sản xuất cũ của mình, Mike Appel, để nhờ Landau đảm nhiệm luôn cả hai công việc. Đây còn là album đầu tiên của Springsteen có sự góp mặt của nghệ sĩ piano Roy Bittan và Max Weinberg (mặc dù David Sancious và Ernest "Boom" Carter mới lần lượt là những người chơi piano và trống trong bài hát tiêu đề); trước khi họ rời ban nhạc lúc sản phẩm được hoàn tất vào tháng 8 năm 1974. Album được ghi chép cẩn thận để chọn tông cho từng ca khúc (các ca khúc đều được sáng tác cho piano chứ không phải guitar) và Phil Spector là người phụ trách phần hòa âm và thực hiện sản xuất. Springsteen nói anh muốn nghe "Born to Run" "như Roy Orbison hát nhạc Bob Dylan và được thu âm bởi Spector". Hầu hết các ca khúc đều được lần đầu thu âm bởi Springsteen, Weinberg, Britan, Talent và các nghệ sĩ khác.

Trong bản LP, Springsteen xây dựng cấu trúc "4 góc" với 2 ca khúc mở đầu mỗi mặt ("Thunder Road", "Born to Run") là những lời ca ngợi tự do, trong khi những ca khúc kết thúc ("Backstreets", "Jungleland") là cảm xúc buồn bã của thất bại và sự thất vọng. Ban đầu, anh định để hai bản thu của "Thunder Road" làm mở đầu và kết thúc album. Ca khúc "Meeting Across the River" có tên lúc đầu là "The Heist". Bìa đĩa gốc có phông chữ viết theo dạng chữ graffiti, được phát hành với số lượng rất hạn chế và được coi là "vết sạn nhỏ" trong sự nghiệp của Springsteen.

Phát hành và quảng bá

Columbia Records đã huy động một hệ thống quảng bá cho album tiêu tốn tới 250.000 USD. Born to Run xuất hiện trong Top 10 của Billboard 200 ở tuần thứ 2 ra mắt và sớm có được chứng chỉ Vàng. Tờ TimeNewsweek cùng để ảnh của Springsteen lên trang bìa trong số ra ngày 27 tháng 10 năm 1975. Jay Cocks của Time vô cùng thích thú với Bruce, trong khi tờ Newsweek ca ngợi anh như là một "Bob Dylan mới". Thậm chí nhiều người còn nghi vấn liệu có thực Springsteen tài năng tới vậy hay chỉ là sản phẩm của ngành công nghiệp âm nhạc.

Trái với những lời tán tụng của Columbia, Bruce tỏ ra khá tức giận: "Nói tôi là tương lai của nhạc Rock là một sai lầm tệ hại, và tôi có thể sẽ bóp cổ ai dám nói tới điều đó." Khi Springsteen tới Anh lần đầu cho buổi diễn tại Hammersmith Odeon, anh yêu cầu gỡ bỏ tấm poster có câu "Cuối cùng cả thế giới đã sẵn sàng với Springsteen" dán ở lobby, cùng với đó là việc cấm để dòng chữ "Tôi đã thấy tương lai của Rock 'n' roll tại Hammersmith Odeon". Thực sự cảm thấy có vấn đề, Columbia buộc phải hủy khá nhiều buổi phỏng vấn của Springsteen. Khi những tranh cãi lắng xuống cũng là lúc album rơi khỏi bảng xếp hạng sau 29 tuần, song nó vẫn kịp giúp Springsteen có một lượng fan vô cùng lớn mà sau này anh luôn trông đợi.

Ở tuần đầu tiên sau khi phát hành, Born to Run chỉ có vị trí khiêm tốn số 84 tại Billboard 200 (ngày 13 tháng 9 năm 1975). Ở tuần thứ hai, nó chen chân vào top 10 với vị trí số 8, rồi nhích lên vị trí số 4 ở tuần tiếp theo trước khi đạt vị trí cao nhất vào tuần 11-18 tháng 10 ở vị trí số 3.

Born to Run cũng quay trở lại Billboard sau khi The RiverBorn in the U.S.A. phát hành. Album nhận chứng chỉ Bạch kim bởi RIAA vào năm 1986.

Năm 1987, Rolling Stone xếp album ở vị trí số 8 trong danh sách 100 album xuất sắc nhất trong vòng 20 trở lại. Năm 2004, tờ báo xếp Born to Run ở vị trí số 18 trong danh sách 500 album vĩ đại nhất. Năm 2001, khán giả của VH1 bầu chọn album ở vị trí 27 trong số các album mọi thời đại và Zagat Music Guide đánh giá đây là album được biết tới nhiều nhất trong cuộc thăm dò năm 2003.

Born to Run nằm trong danh sách thu âm được lưu trữ bởi Thư viện Quốc hội Mỹ.

Đánh giá chuyên môn

Trình diễn trực tiếp

Các ca khúc của Born to Run được biểu diễn rất nhiều trong giai đoạn từ giữa năm 1974 kéo tới hết những chương trình tour diễn của Springsteen vào năm 2009. Springsteen và The E Street Band lần đầu tiên hát hoàn chỉnh cả album trong một chương trình từ thiện tại Nhà hát Count Basie ở Red Bank, New Jersey ngày 7 tháng 5 năm 2008. Họ làm điều đó một lần nữa trong buổi diễn ngày 20 tháng 9 năm 2009 tại United Center ở Chicago, Illinois và một vài chương trình phụ trong tour diễn mùa thu năm 2009, Working on a Dream Tour.

Bìa đĩa

Bìa của Born to Run là một trong những bìa nổi tiếng nhất và hay được bắt chước nhất.

Bức ảnh là hình của Springsteen đang cầm trong tay cây Fender Broadcaster khi anh đang bám vào vai của nghệ sĩ saxophone Clarence Clemons.

Xếp hạng

;Album

;Đĩa đơn

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Born to Run_** là album phòng thu thứ ba của ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Bruce Springsteen. Với những nỗ lực trong việc tiếp cận dòng nhạc thị trường hơn, album đã
MÔ TẢ SẢN PHẨMPhấn Mắt Urban Decay Born To Run Eyeshadow Palette là một trong những sự lựa chọn vô cùng lý tưởng cho những cô nàng yêu thích phong cách trang điểm CÁ TÍNH.
"**Welcome to the Black Parade**" là một bài hát trích từ album phòng thu thứ ba của ban nhạc rock người Mỹ My Chemical Romance là _The Black Parade_ (2006). Ca khúc được phát hành
**Bruce Frederick Joseph Springsteen** (sinh ngày 23 tháng 9 năm 1949), biệt danh "**The Boss**", là một ca sĩ và nhạc sĩ người Mỹ. Ông đã đi lưu diễn cùng nhóm The E Street Band
**Official New Zealand Music Chart** là bảng xếp hạng top 40 đĩa đơn và abum hàng tuần ở New Zealand, phát hành hằng tuần bởi Recorded Music NZ (trước đây là Hiệp hội Công nghiệp
**Friends Arena**, cũng được gọi là **Nationalarenan**, là một sân vận động đa năng có mái che có thể thu vào ở Stockholm, Thụy Điển. Nằm bên cạnh hồ Råstasjön ở Solna, ở phía bắc
**_The Animals_** là ban nhạc của Anh trong những năm 60 của thế kỉ 20, thành lập ở Newcastle và chuyển tới Luân Đôn để tìm kiếm thành công vào năm 1964. Ban nhạc có
**Giải Grammy lần thứ** **49** là một giải thưởng âm nhạc danh giá nhằm tôn vinh các cá nhân thu âm xuất sắc bắt đầu từ 15 tháng 9 năm 2005 và kết thúc vào
**_Giải Grammy cho Video nhạc phim Xuất sắc nhất_** (trước năm 2013 được biết tới là **Video ca nhạc hình thức dài xuất sắc nhất**) ## Nội dung thắng giải thumb|upright|alt=Four men performing on a
**_Hypersonic Missiles_** là album phòng thu đầu tay của nam nhạc sĩ người Anh Sam Fender. Album được phát hành thông qua Polydor Records vào ngày 13 tháng 9 năm 2019. Album bao gồm các
**American Authors** là một ban nhạc indie rock Mỹ nguồn gốc tại thành phố New York và đã ký hợp đồng với Island Def Jam Music Group. Họ được biết tới nhiều nhất bởi đĩa
"**Thunder Road**" là ca khúc của ca sĩ người Mỹ Bruce Springsteen, mở đầu cho album nổi tiếng _Born to Run_ (1975). Đây được coi là một trong những sáng tác thành công nhất của
**Giải Oscar cho ca khúc gốc trong phim xuất sắc nhất** là một trong số những giải Oscar được Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh trao tặng hàng năm cho những
**Giải Grammy lần thứ 52** diễn ra ngày 31 tháng 1 năm 2010 tại Trung tâm Staples ở Los Angeles, California, Mỹ. Chỉ 10 trong số 109 hạng mục của giải được phát sóng trên
**Ian Fraser Kilmister** (24 tháng 12 năm 1945 – 28 tháng 12 năm 2015), được biết đến với nghệ danh **Lemmy**, là nhạc sĩ, ca sĩ, người viết bài hát và là thủ lĩnh của
Wonder My name is August. I wont describe what I look like. Whatever youre thinking, its probably worse. Auggie wants to be an ordinary ten-year-old. He does ordinary things - eating ice cream, playing on
"**I'm Not a Girl, Not Yet a Woman**" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Britney Spears, được sáng tác và sản xuất của Max Martin và Rami Yacoub, với sự
**The 1st Japan Arena Tour** là chuyến lưu diễn đầu tiên tại Nhật Bản của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Girls' Generation nhằm quảng bá cho album tiếng Nhật đầu tay cùng tên của họ.
**Robert Earl Wise** (10 tháng 9 năm 1914 - 14 tháng 9 năm 2005) là một đạo diễn, nhà sản xuất và biên tập phim người Mỹ. Ông đã giành giải Oscar cho Đạo diễn
**_Revival_** là album phòng thu thứ chín của rapper người Mỹ Eminem. Album được Aftermath Entertainment, Shady Records và Interscope Records phát hành vào ngày 15 tháng 12 năm 2017. Việc chuẩn bị cho album
**Ông Hồng** (sinh ngày 17 tháng 9 năm 1968) là một nữ diễn viên và cựu hoa hậu người Trung Quốc trú tại Hồng Kông. ## Xuất thân Ông Hồng sinh ngày 17 tháng 9
upright|thumb|[[Westlife có 11 đĩa đơn quán quân từ năm 2000 đến 2009, bao gồm một bản cover "Against All Odds" của Phil Collins, mà ban nhạc đã phát hành bản song ca với Mariah Carey
[[Tập_tin:UEFA_members_Champions_League_stages.png|nhỏ|450x450px|Bản đồ các quốc gia UEFA, các vòng đấu đạt được bởi các đội ở UEFA Champions League và Cúp C1 châu Âu. ]] Trang này liệt kê chi tiết **thống kê Cúp C1 châu
**2011 MTV Video Music Awards** diễn ra vào ngày 28 tháng 8, tại Nhà hát Nokia ở Los Angeles, nhằm tôn vinh những video âm nhạc tốt nhất từ năm trước. Ngày 20 tháng 7,
**Beyoncé Giselle Knowles-Carter** (, sinh ngày 4 tháng 9 năm 1981) thường được biết đến với nghệ danh **Beyoncé**, là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ, vũ công, nhà sản xuất âm nhạc và diễn
**Henry Charles Bukowski** (phiên âm tiếng Việt: Bu-kốp-xki, ; tên khai sinh là **Heinrich Karl Bukowski** - ; sinh ngày 16 tháng 8 năm 1920 – mất ngày 9 tháng 3 năm 1994) là một
**Giải Quả cầu vàng cho ca khúc trong phim hay nhất** là một trong các giải Quả cầu vàng được Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood trao hàng năm cho ca khúc trong
**Lang's Fairy Books** là tuyển tập 25 cuốn truyện cho thiếu nhi do tác giả Andrew Lang và phu nhân Leonora Blanche Alleyne công bố giai đoạn 1889 - 1913 tại Scotland. ## Lịch sử
**Giải Oscar cho quay phim xuất sắc nhất** là một trong các giải Oscar mà Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh trao tặng hàng năm cho người quay phim của một
, thường được biết đến với nghệ danh **Mike Shinoda**, là một nhạc công, ca sĩ, nhà soạn nhạc, rapper, nhà sản xuất đĩa nhạc, và nhà thiết kế đồ họa người Mỹ gốc Nhật.
**Bradley Charles Cooper** (sinh ngày 5 tháng 1 năm 1975) là một nam diễn viên và nhà làm phim người Mỹ. Anh đã được đề cử nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có 4
**Bradford City Association Football Club** là câu lạc bộ bóng đá nằm ở Bradford, West Yorkshire. Thành lập vào năm 1903, hiện tại đội bóng đang thi đấu ở League One. Màu sắc chủ đạo
nhỏ|Giải Quả cầu vàng cho nam diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất **Giải Quả cầu vàng cho nam diễn viên điện ảnh xuất sắc nhất – ca nhạc hoặc hài**
**Giải Oscar cho thiết kế sản xuất xuất sắc nhất** (trước năm 2012 là _Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất_) là một trong các giải Oscar mà Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ
Dưới đây là danh sách các phim tài liệu đoạt giải Oscar. Năm ghi trong danh sách này là năm phát giải. ## Các phim đoạt giải và các phim được đề cử ### Thập
**Danh sách 100 phim hài của Viện phim Mỹ** (tiếng Anh: _AFI's 100 Years... 100 Laughs_) là một trong các danh sách được Viện phim Mỹ (_American Film Institute_, viết tắt là _AFI_) lập ra
**_The Exorcist_** (tựa Việt: **_Thầy trừ tà_** hay **_Quỷ ám_**) là một bộ phim được phát hành vào năm 1973 thuộc thể loại kinh dị siêu nhiên do Hoa Kỳ sản xuất. Bộ phim được
**Leslie Louise Bibb** (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1974) là nữ diễn viên và người mẫu Mỹ. Bibb bắt đầu hoạt động trong ngành phim ảnh từ cuối những năm 1990. Năm 1997, cô
"**Woman in Love**" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Barbra Streisand nằm trong album phòng thu thứ 22 của bà, _Guilty_ (1980). Nó được phát hành vào ngày 16 tháng