Nguyễn Cửu Kiều (阮久蕎, 1559–1656) là một danh tướng dười thời chúa Nguyễn trong giai đoạn Trịnh-Nguyễn phân tranh.
Xuất thân
Theo sách “Đại Nam liệt truyện tiền biên” thì tướng Nguyễn Cửu Kiều sinh năm 1559, người huyện Tống Sơn (nay là Hà Trung, sử nhà Nguyễn gọi là “quý huyện”, do đây cũng là quê hương của các chúa Nguyễn), tỉnh Thanh Hóa. Cha của ông tên là Quảng, làm quan nhà Lê đến chức Điện tiền Đô kiểm điểm Quận công. Dòng dõi Nguyễn Cửu Kiều vốn được ban họ chúa (quốc tính) là Nguyễn Phúc, đến năm Minh Mạng thứ nhất (1820), để tưởng thưởng công trạng của công thần, vua ban “cho con cháu công thần quốc sơ là Nguyễn Phúc Kiều làm họ Nguyễn Cửu” (gọi là Công tính).
Sự nghiệp
Nhận thấy chúa Trịnh không theo đạo vua tôi, lấn át vua Lê, nên Cửu Kiều có ý định vào nam với chúa Nguyễn. Bấy giờ có Công nữ Ngọc Tú biết được ý định của Cửu Kiều, bí mật đưa thư và ấn báu cho Cửu Kiều, bảo ông vào nam giúp chúa Sãi.
Năm 1623, Nguyễn Cửu Kiều từ Đông Đô (Thăng Long), nhận mật thư và bảo ấn do chính phi của chúa Trịnh Tráng là Nguyễn Thị Ngọc Tú (con gái chúa Nguyễn Hoàng) giao cho, giả là người đi chọi gà vào Nam theo chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Đại Nam liệt truyện có đoạn:
Hi Tông Hoàng Đế năm thứ 10, Quý Hợi (1623), Kiều từ Đông đô nhận mật thư và bảo ấn do Trịnh Phi là Ngọc Tú giao cho, giả là người đi chọi gà vào Nam. Chúa Trịnh biết, cho người đuổi theo. Kiều đến sông Gianh, không có thuyền mà lính bên Trịnh đuổi theo gần đến nơi. Kiều mật khấn rằng: "Sông nếu có thần thiêng thì giúp cho ta qua sông, đừng để giặc bắt". Chợt thấy có một con trâu nằm ở bờ sông, Kiều bèn cưỡi trâu sang sông. Lên đến bờ sông bên này không thấy trâu đâu nữa.
Đến Quảng Bình, nhờ tướng Nguyễn là Nguyễn Hữu Dật tiến cử ra mắt chúa Nguyễn Phúc Nguyên, dâng mật thư và bảo ấn. Chúa Nguyễn mừng quá, cho Cửu Kiều làm Đội trưởng, quản thuyền Mã cơ, sau thăng làm
Cai đội thuyền Trung đạo, được gả công chúa thứ ba là Ngọc Đỉnh, rồi thăng đến chức Chưởng cơ.
Năm 1633, Kiều ra làm Trấn thủ Quảng Bình. Mùa đông năm ấy, quân Trịnh đến xâm lấn, Kiều xin đóng cọc ngăn cửa biển Nhật Lệ, để chống lại. Chúa dùng kế ấy, được hơn mười ngày, quân Trịnh hơi trễ nải, quân Nguyễn đột chiến xông ra đánh dữ, quân Trịnh tan chạy.
Năm 1640, hàng tướng Trịnh là Nguyễn Khắc Loát làm phản, quấy rối châu Nam Bố Chính. Chúa Nguyễn sai Cửu Kiều cùng Trương Phước Phấn đem quân đánh đuổi, lấy được cả đất Bắc Bố Chính. Sau đó chúa Trịnh đưa thư nói Nguyễn và Trịnh là chỗ thế nghị và đòi lại chỗ đất đã bị xâm lấn. Chúa Nguyễn mới sai trả Bắc Bố Chính cho họ Trịnh.
Mùa xuân năm 1648, chúa Trịnh đem hết quân miền Bắc vào đánh cửa biển Nhật Lệ, Cửu Kiều sai Nguyễn Triều Văn đem binh thuyền chống cự nhưng không đánh thắng được. Đàng Ngoài cậy quân nhiều, tiến đóng Võ Xá. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên sai Thế tử Nguyễn Phúc Tần đem quân đi đánh, được toàn thắng.
Năm 1655 tướng Trịnh giữ châu Bắc Bố Chính là Phạm Tất Đồng đưa quân quấy rối ngoài biên, hai tướng của Đàng Trong là Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến và Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật đem quân đi đánh, sai Xuân Sơn làm tiền phong hạ đạo, Cửu Kiều đem quân đi, cũng lệ thuộc vào đấy. Quân Nguyễn tiến đánh ra tận Hà Trung, quân Trịnh thua chạy. Cửu Kiều đem thủy quân tiến đóng bờ nam sông Đàm, chiêu phủ hai huyện Kỳ Anh, Thạch Hà, quân và dân miền Bắc về hàng chúa Nguyễn ngày càng đông.
Mùa hè năm 1656, quân chúa Nguyễn tiến đến sông Lam, Cửu Kiều kiêm lĩnh chức Thủy sư Phó tướng cùng Tham tướng Tôn Thất Tráng đem binh thuyền thẳng đến cửa biển Đan Nha (tức cửa Hội) phá tan được thủy binh nhà Trịnh. Gặp lúc thủ lĩnh miền núi là Phù Dương đem binh miền thượng đánh quân của tướng Trịnh là Đào Quang Nhiêu. Quân Trịnh ập đến, quân Phù Dương thua. Cửu Kiều đem quân đến cố sức đánh, chém được tướng miền Bắc là Tào Nham và Diễn Thọ tại trận. Cửu Kiều cũng bị thương nặng, về Quảng Bình thì chết, thọ 98 tuổi.
Gia đình
Nguyễn Cửu Kiều có hai trai là Ứng và Dực. Ứng khéo bắn súng lớn, ban đầu làm Cai cơ, quản cơ Tả Trung kiên, làm dần đến Trấn thủ doanh Bố Chính. Khi tại chức, làm chính sự, chuộng hòa, rất có thành tích. Rồi được trao chức Chưởng cơ, lĩnh việc trấn như cũ. Dần thăng đến Chưởng doanh, Thống suất đạo Lưu Đồn. Vì con của Nguyễn Cửu Ứng là Khâm chơi nghịch phạm pháp, nên Nguyễn Cửu Ứng phải tội lây, bị miễn chức. Sau đó được khởi phục lại làm Trấn thủ Quảng Bình, mộ lính lập cơ Trung Kiên, thuyền Thắng Trụ. Năm 1705, mùa thu, Nguyễn Cửu Ứng chết, thọ 72 tuổi, được tặng Khiêm cung công thần, Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Tả quân Đô đốc Chưởng phủ sự, Trấn Quận công. Dân xã Trung Kiên, tỉnh Quảng Bình, nhớ ơn lập đền thờ.
Con thứ ba của Cửu Ứng là võ tướng Nguyễn Cửu Thế, được lấy công chúa Ngọc Phượng, lúc mất được truy tặng Tán trị công thần, Đặc tiến Khai phủ phụ quốc Thượng tướng quân, Trấn thủ, Hữu quân Đô thống phủ Đô đốc Thiếu phó Trung quốc công, cho lập đền thờ ở xã Vân Dương (Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế).
Cửu Thế có 3 con trai là Quý, Thông và Pháp. Quý làm đến Ngoại hữu Chưởng doanh, tặng phong Tá lý công thần, Tả quân Đô đốc. Thông trước làm Cai đội, giữ quân cấm vệ, dần thăng đến Nội tả Chưởng cơ, lại lên Chưởng doanh, được tặng tước Trấn phủ Kính quận công.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Cửu Kiều** (阮久蕎, 1559–1656) là một danh tướng dười thời chúa Nguyễn trong giai đoạn Trịnh-Nguyễn phân tranh. ## Xuất thân Theo sách _“Đại Nam liệt truyện tiền biên”_ thì tướng Nguyễn Cửu Kiều
**Nguyễn Văn Kiểu** (1916 – ?) là anh trai của cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, từng là Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Trung Hoa Dân Quốc và cũng là Đại sứ Việt
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Trịnh – Nguyễn phân tranh** (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở
**_Đoạn trường tân thanh_** (chữ Hán: 斷腸新聲), thường được biết đến với cái tên đơn giản là **_Truyện Kiều_** (chữ Nôm: 傳翹), là một truyện thơ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
nhỏ|Giáo sư Nguyễn Thúc Hào **Nguyễn Thúc Hào** (6 tháng 8 năm 1912 – 9 tháng 6 năm 2009) là một giáo sư người Việt Nam. Ông đã từng giữ chức Hiệu trưởng Trường Đại
**Nguyễn Phúc Chú** (chữ Hán: 阮福澍, 1697-1738) hay **Trú** hay **Thụ** trấn Hà Tiên, để giữ gìn và mở mang xứ ấy. Tháng 6 mùa hạ năm thứ 12 (1737), triều đình định lại quan
nhỏ| Tượng Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều trong Bảo tàng [[Đồng Tháp]] ## Cuộc đời Tương truyền **Đốc binh Kiều** là người miền Trung di cư vào Nam lập nghiệp ở huyện Kiến Đăng, tỉnh
**Nguyễn Uông** (阮汪) là một nhà chính trị và tướng lĩnh thời Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai cả của danh tướng Nguyễn Kim (1468-–1545) và là anh trai
**Nguyễn Văn Hoàn** (27 tháng 6 năm 1932 - 17 tháng 6 năm 2015) là một nhà dịch giả, nghiên cứu Kiều học, Ý học người Việt Nam, nguyên Phó Viện trưởng Viện Văn học.
**Nguyễn Quảng Tuân** (chữ Nôm: 阮廣詢) (1925–2019) là một nhà văn, nhà thơ và nhà nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam. ## Tiểu sử Ông sinh ngày 11 tháng 6 năm 1925, tại làng Yên
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
phải|2 bộ Mãng Bào và mũ Kim Quan làm triều phục của công hầu thời Nguyễn, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội. Trong suốt hơn 140 năm tồn tại (1802-1945) với 13 đời
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
nhỏ|Bản đồ đài nguyên Bắc Cực Trong địa lý tự nhiên, **đài nguyên**, **lãnh nguyên** hay **đồng rêu** là một quần xã sinh vật trong đó sự phát triển của cây gỗ bị cản trở
**Mạc Cửu** (鄚玖), hay **Mạc Kính Cửu** (鄚敬玖): 1655 – 1735); là một thương gia người Hoa có công khai phá, hình thành vùng đất Hà Tiên (Kiên Giang) vào khoảng đầu thế kỷ XVII
**Tết Nguyên Đán** (còn gọi là **Tết Cả**, **Tết Ta**, **Tết Âm lịch**, **Tết Cổ truyền**, **Tết Á Đông** hay đơn giản là **Tết**) là dịp lễ đầu năm mới theo âm lịch của Việt
**Nguyễn Cao Kỳ** (8 tháng 9 năm 1930 – 22 tháng 7 năm 2011) là một tướng lĩnh Không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng trước khi tham gia
**Nguyễn An Ninh** (15 tháng 9 năm 1900 - 14 tháng 8 năm 1943) là nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu tôn giáo và là nhà cách mạng ở đầu thế kỷ 20 trong
**Nguyễn Quý Đạo** (sinh năm 1937 tại Hải Phòng) là nhà hóa học Việt kiều định cư tại Pháp. Ông là em út trong một gia đình có ba anh em trai sau này đều
**Nguyễn Hồng Giáp** (sinh ngày 21 tháng 9 năm 1934) là một nhà giáo, nhà nghiên cứu Việt Nam. ## Tiểu sử Ông sinh ngày 21 tháng 9 năm 1934 tại xã Nam Thành, huyện
**Nguyễn Tài Cẩn** (2 tháng 5 năm 1926 – 25 tháng 2 năm 2011) là một trong những chuyên gia đầu ngành Ngôn ngữ học Việt Nam. Ông đã có công lớn trong việc xây
**Ôn Kiệu** (chữ Hán: 温峤, 288 – 329) tự **Thái Chân**, người huyện Kỳ, quận Thái Nguyên, Tịnh Châu, là đại thần nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công dẹp loạn
**[https://lvt.edu.vn/nguyen-lan-dung/ Nguyễn Lân Dũng]**, sinh năm 1938 là một giáo sư tiến sĩ sinh học, Nhà giáo Nhân dân của Việt Nam. Công tác chính của ông là giảng dạy và nghiên cứu tại Viện
Yết Kiêu là tuỳ tướng của Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Ông tên thật là Phạm Hữu Thế. Quê ở làng Hạ Bì, huyện Gia Phúc (nay là thôn Hạ Bì, xã Yết
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm** là các công trình kiến trúc – văn hóa gắn với cuộc đời và sự nghiệp của Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm ngay tại quê nội
**Nguyên thủ quốc gia** là người đứng đầu một quốc gia. Trong một số quốc gia, nguyên thủ kiêm trách nhiệm đứng đầu cơ quan hành pháp. Tuy nhiên, hiện nay ngoài một vài nguyên
**Đài thiên văn phía Nam của Châu Âu** (tiếng Anh: _European Southern Observatory_ (ESO), tiếng Pháp: _Observatoire européen austral_), tên chính thức là **Tổ chức Nghiên cứu thiên văn châu Âu tại Nam Bán cầu**
**Nguyễn Văn Vĩnh** (chữ Hán: 阮文永; 1882 – 1936) là nhà tân học, nhà báo, nhà văn, nhà phiên dịch Việt Nam, nhà chính trị Việt Nam đầu thế kỷ 20. Khi viết bài, ông
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Bình Nguyên Lộc** (7 tháng 3 năm 1914 - 7 tháng 3 năm 1987), tên thật là **Tô Văn Tuấn**, còn gọi là **Năm Tuấn**, là một nhà văn lớn, nhà văn hóa Nam Bộ
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
**Nguyễn Thị Kim Ngân** (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1954) là nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và là nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà nguyên là Chủ tịch Quốc hội, nguyên
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
nhỏ|phải|Vị trí vùng Đồng bằng sông Cửu Long trên bản đồ Việt Nam **Đồng bằng sông Cửu Long**, còn được gọi là **Tây Nam Bộ** hay** miền Tây**, là vùng cực nam của Việt Nam,
**Nguyễn Cảnh Toàn** (28 tháng 9 năm 1926 – 8 tháng 2 năm 2017) là một Giáo sư Toán học Việt Nam, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư
**Nguyễn Liên Phong** (1821 - ?), còn gọi là **Nguyễn Phong**; là quan nhà Nguyễn, là nhạc sĩ, nhà thơ, và là nhà nghiên cứu âm nhạc cổ truyền Việt Nam thời Pháp thuộc. ##
**_Kim Vân Kiều_** () là một tác phẩm tiểu thuyết chương hồi của Thanh Tâm Tài Nhân, tác giả đời nhà Minh, Trung Quốc biên soạn vào cuối thế kỷ 16 và đầu thế kỷ
**Nguyễn Phan Chánh** (阮潘正, 21 tháng 7 năm 1892 – 22 tháng 11 năm 1984) bút hiệu **Hồng Nam** (鴻南), là một danh họa trong nghệ thuật tranh lụa; Đại biểu Quốc hội Việt Nam
**Nguyễn Đổng Chi** (6 tháng 1 năm 1915 – 20 tháng 7 năm 1984) là một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam, nguyên Trưởng ban Hán Nôm, nguyên Quyền Viện trưởng Viện
Toàn cảnh bến Ninh Kiều **Bến Ninh Kiều**, nay được gọi là **Công viên Ninh Kiều**, là một bến nước và là địa danh du lịch, văn hóa của thành phố Cần Thơ hình thành
**Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội** _(Hanoi University of Natural Resources and Environment;_ viết tắt_: HUNRE)_, là một trường Đại học công lập tại Hà Nội, trực thuộc Bộ Nông nghiệp
**_Kiều_** là một bộ phim điện ảnh cổ trang của Việt Nam do Mai Thu Huyền sản xuất và đạo diễn, được lấy cảm hứng từ tác phẩm _Truyện Kiều_ của Nguyễn Du. Là dự