✨Nectanebo I

Nectanebo I

Kheperkare Nakhtnebef, được biết đến nhiều hơn với tên gọi theo tiếng Hy Lạp là Nectanebo I, là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là người sáng lập ra vương triều bản địa cuối cùng của Ai Cập, Vương triều thứ Ba Mươi.

Triều đại

Kế vị và gia đình

Nectanebo là một tướng lĩnh quân đội đến từ Sebennytos, con trai của một tướng lĩnh quân đội có thế lực tên là Teos (cách gọi theo tiếng Hy Lạp của tên Djedhor). Một tấm bia đá được tìm thấy tại Hermopolis cung cấp một số bằng chứng cho thấy rằng ông giành được quyền lực thông qua việc lật đổ và có thể đã xử tử vị pharaon cuối cùng của vương triều thứ 29 là Nepherites II. Người ta đã đưa ra giả thuyết cho rằng Nectanebo được viên tướng người Athen là Chabrias hỗ trợ trong cuộc chính biến. Nectanebo tổ chức lễ đăng quang của ông ta vào khoảng năm 379/8 TCN ở cả Sais và Memphis, rồi chuyển kinh đô từ Mendes tới Sebennytos.

Mối quan hệ giữa Nectanebo và các pharaon của vương triều trước không hoàn toàn rõ ràng. Ông tỏ ra không mấy tôn trọng đối với Nepherites II, gọi ông là kẻ bất tài, và với cả Achoris (cha của Nepherites II) khi nói ông là kẻ cướp ngôi. Ông dường như đã có một sự kính trọng cao hơn dành cho Nepherites I, ông ta trước đây được cho là cha hoặc là ông nội của Nectanebo, mặc dù vậy ngày nay người ta tin rằng quan điểm này là do một sự giải thích sai từ Biên niên sử thông dụng.

Trên hòn đảo linh thiêng Philae gần Aswan, ông đã khởi công ngôi đền thờ thần Isis, nó sẽ trở thành một trong những địa điểm tôn giáo quan trọng nhất ở Ai Cập cổ đại, bằng việc xây dựng tiền sảnh của nó. Nectanebo cũng đã khởi công cửa tháp thứ nhất thuộc khu vực điện thờ Amun-Re tại Karnak, và người ta tin rằng cấu trúc mammisi đầu tiên được biết đến mà được tìm thấy ở Dendera là do ông xây dựng. Sự thờ cúng các loài động vật linh thiêng, mà trở nên nổi bật trong giai đoạn giữa hai thời kỳ chiếm đóng của người Ba Tư (các vương triều thứ 27 và 31), đã nhận được sự ủng hộ của Nectanebo, điều này được chứng minh thông qua các phát hiện khảo cổ học tại Hermopolis, Hermopolis Parva, Saft el-Hinna và Mendes. Những công trình khác được xây dựng theo lệnh của vị pharaon cũng đã được tìm thấy trong các công trình tôn giáo ở Memphis, Tanis và El Kab. thumb|upright|Cửa tháp thứ nhất, Karnak Nectanebo cũng đã hào phóng đối với tầng lớp giáo sĩ. Một sắc lệnh có niên đại vào năm trị vì đầu tiên của ông đã được phát hiện trên một tấm bia đá tại Naucratis, yêu cầu rằng 10% số thuế thu được từ hàng hóa nhập khẩu và từ các sản vật địa phương ở thành phố này phải được sử dụng cho ngôi đền của thần Neith tại Sais. Một tấm bia đá đi đôi với tấm bia này gần đây đã được phát hiện tại thành phố Heracleion vốn bị chìm dưới mực nước biển . Tấm bia đá được nói đến ở trên đến từ Hermopolis và từng được đặt phía trước một cổng tháp của Ramesses II, nó liệt kê những thứ được Nectanebo dâng lên cho các vị thần địa phương, và các bổng lộc khác cũng được ban cho các tư tế của thần Horus tại Edfu Artaxerxes đã phái một đạo quân lớn dưới sự chỉ huy của viên tướng người Athen là Iphicrates cùng với viên tướng người Ba Tư là Pharnabazus. Người ta ghi lại rằng đạo quân này có quân số hơn 200.000 người bao gồm binh sĩ Ba Tư và lính đánh thuê Hy Lạp cùng khoảng 500 tàu. Các thành lũy nằm trên bờ nhánh Pelusiac của sông Nile vốn được Nectanebo ra lệnh xây dựng đã buộc hạm đội của đối phương phải tìm một tuyến đường khác để đi ngược dòng sông Nile. Cuối cùng hạm đội này đã tìm được đường theo nhánh Mendesian ít được bảo vệ.

Từ năm 368 TCN trở đi, do nhiều satrap phía Tây của Đế chế Achaemenes bắt đầu nổi loạn chống lại Artaxerxes II, cho nên Nectanebo đã cung cấp sự ủng hộ về tài chính cho các satrap nổi dậy và thiết lập lại mối quan hệ với cả Sparta và Athens.

Kế vị

Nectanebo qua đời vào năm trị vì thứ 19 của ông. Ngôi mộ, cỗ quan tài và xác ướp của ông chưa bao giờ được tìm thấy. Vào giai đoạn cuối triều đại của mình (vào năm thứ 16 - năm 364/3 TCN), có lẽ để nhằm khắc phục những vấn đề liên quan đến triều đại mà đã gây tai họa cho những vị tiên vương trước đó, Nectanebo đã khôi phục lại truyền thống cùng trị vì- vốn đã bị lãng quên từ lâu- với người con trai Teos của ông. Tuy nhiên, ngay sau khi Teos kế vị, người em trai của Teos là Tjahapimu đã phản bội ông ta và đưa người con trai của mình là Nakhthorheb (Nectanebo II) lên làm vua.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kheperkare Nakhtnebef**, được biết đến nhiều hơn với tên gọi theo tiếng Hy Lạp là **Nectanebo I**, là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là người sáng lập ra vương triều bản địa
Nectanebo II_' (được Manetho phiên âm từ tiếng Ai Cập _Nḫt-Ḥr-(n)-Ḥbyt'', "Mạnh mẽ khi là Horus của Hebit"), cai trị trong khoảng từ năm 360—342 TCN) là vị pharaon thứ ba thuộc vương triều thứ
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
**Hakor** hay **Hagar**, còn được biết đến trong tiếng Hy Lạp là **Achoris** hoặc **Hakoris**, là một pharaon thuộc vương triều thứ 29 của Ai Cập cổ đại. Triều đại của ông là giai đoạn
trái|nhỏ|173x173px|Một mặt nạ xác ướp thuộc Vương triều thứ 30 **Vương triều thứ Ba Mươi của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 30**) là một vương triều được cai trị bởi các pharaon Ai
**Agesilaos II**, hoặc là **Agesilaus II** (tiếng Hy Lạp: ****, 444 trước Công Nguyên – 360 trước Công Nguyên) là một vị vua nhà Eurypond của Sparta, trị vì từ khoảng năm 400 trước Công
**Djedhor**, được biết đến nhiều hơn với tên gọi là **Teos** (Tiếng Hy Lạp cổ đại: Τέως) hoặc **Tachos** (tiếng Hy Lạp cổ đại: Τάχως), là một pharaon thuộc vương triều thứ 30 của Ai
**Quần thể đền Karnak**, thường gọi tắt là **đền Karnak**, là một di tích nổi tiếng nằm ở thành phố Thebes, kinh đô cũ của Ai Cập. Di tích này gồm nhiều tàn tích của
**Quần thể đền thờ đảo Philae** (phát âm là "phi lây"; tiếng Hy Lạp là philai, phili hay pilakh; tiếng Ai Cập: ) là một quần thể đền thờ nằm trên một hòn đảo giữa
**Đền Luxor** là một quần thể đền thờ nằm ở bờ đông sông Nin thuộc thành phố Thebes cổ xưa và Luxor, Ai Cập ngày nay, được xây dựng vào năm 1400 TCN. Trong tiếng
**Artaxerxes III Ochus của Ba Tư** (khoảng 425-338 TCN; tiếng Ba Tư:اردشير سوم; tiếng Ba Tư cổ: 𐎠𐎼𐎫𐎧𐏁𐏂𐎠, phiên âm là _Artaxšaçā_) là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Achaemenes xứ Ba Tư (358-338
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Ai Cập** ( , , ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Ả Rập Ai Cập**, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với
nhỏ|[[Hathor, nữ thần của dải Ngân Hà]] **Lịch sử Ai Cập** là lịch sử của một lãnh thổ thống nhất lâu đời nhất trên thế giới. Vùng Thung lũng sông Nin tạo một khối địa