✨Mũi đất Farewell

Mũi đất Farewell

thumb|upright|Đụn cát tại Mũi đất Farewell. Mũi đất Farewell là một mũi cát hẹp nhô ra biển ở cuối phía Bắc của vịnh Golden ở Đảo Nam, New Zealand. Nó được những người Māori biết đến với tên gọi Tuhuroa. Mũi đất bắt đầu từ Mũi Farewell (điểm cực bắc của Đảo Nam) và chạy về phía đông. Mũi đất nằm cách 50 km về phía bắc của thị trấn Takana và khoảng 20 km từ Collingwood. Khu định cư nhỏ Puponga nằm ngay gần về phía tây của mũi đất Farewell.

Mũi đất Farewell là ranh giới phía bắc của vịnh Golden, là dải cát dài nhất ở New Zealand. Nó trải dài 26 km trên mực nước biển và 6 km nữa nằm dưới mực nước biển. Trải dài từ tây sang đông với chủ yếu là loại cát vàng mịn cũng như ở mũi Farewell, thành phần chủ yếu là cát kết thạch anh kỷ Phấn Trắng. Ngoài ra là một số dấu tích của các khoáng vật nặng khác như Granat, Ilmenit, Magnetit, Pyroxen. Sự xói mòn của các vách đá bởi dòng nước tạo thành cát mịn và kéo dài nó về phía đông.

Phía bắc của mũi đất là cồn cát dốc hơn và không ổn định do liên tục bị các cơn gió biển thổi đi với tốc độ trung bình 25 km/h. Phía nam là mặt quay về phía vịnh Golden ổn định hơn và phần lớn được bao phủ bởi thảm thực vật. Thủy triều ở đây có thể rút đi đi xa khoảng 7 km, tạo ra khoảng 80 km vuông bùn đất. Đây chính là một vùng đất giàu thức ăn cho nhiều loài chim biển trong khu vực nhưng cũng là một cái bẫy nguy hiểm cho những con cá voi bị mắc kẹt thường xuyên tại đây.

Lịch sử

Abel Tasman là người châu Âu đầu tiên nhìn thấy mũi đất vào năm 1642 và gọi nó là Sand Duining Hoeck. Thuyền trưởng James Cook là vị khách châu Âu tiếp theo ghé thăm nó vào năm 1770,

Có một ngọn hải đăng ở cuối mũi đất lần đầu tiên chiếu sáng vào ngày 17 tháng 6 năm 1870 nhằm giúp tàu thuyền qua lại tránh được dải cát ngầm. Tháp gỗ nguyên thủy của nó không đứng vững được trước những cơn gió cát và hơi mặn từ nước biển ở đây. Gỗ được sử dụng để xây dựng ban đầu bị hư hỏng nhanh chóng và tháp ban đầu được thay thế vào năm 1897 bởi cấu trúc hiện tại, một ngọn hải đăng bằng lưới thép duy nhất ở New Zealand.

Do mũi đất chỉ cao 30 mét so với mực nước biển tại điểm xây dựng nên ngọn hải đăng phải cao hơn so với các ngọn hải đăng trên bờ biển khác của New Zealand. Ánh sáng của tháp cao 27 mét (89 feet), có thể được nhìn thấy trong khu vực bán kính 35 km. Đèn đốt dầu ban đầu được chuyển thành đèn điện 1000W vào năm 1954, và nguồn cung cấp năng lượng diesel được thay thế bằng cáp điện chính chôn dọc theo mũi đất vào năm 1966. Đèn ban đầu đã được thay đổi thành đèn hiệu xoay vòng hiện đại với một đèn 50 wolfram halogen vào năm 1999.

Ánh sáng từ ngọn hải đăng hoàn toàn tự động và người gác ngọn hải đăng cuối cùng đã được rút vào năm 1984. Nhà của người gác ngọn hải đăng và hai tòa nhà khác ở đây vẫn đang được duy trì được sử dụng bởi Bộ Bảo tồn và Hàng hải New Zealand và các tổ chức du lịch.

Mũi đất hiện được quản lý bởi Cục Bảo tồn New Zealand như là một khu vực bảo tồn quan trọng của các loài chim biển. Ngoài một khu vực nhỏ ở đầu phía tây của mũi đất thì nó bị đóng cửa, ngoại trừ các tour du lịch có tổ chức. Các tour du lịch bằng xe buýt từ Collingwood hoặc Puponga cho du khách cơ hội để ra xa hơn về phía đông, ghé thăm ngọn hải đăng và vùng đất của loài Chim điên. Phía nam của Farewell là nơi sinh sống của hàng ngàn loài chim biển. Nó cũng là địa điểm mà những con cá voi thường xuyên mắc kẹt tại các bãi bùn, chủ yếu là Cá voi đầu tròn vây dài. Phía bắc giáp Biển Tasman.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|upright|Đụn cát tại Mũi đất Farewell. **Mũi đất Farewell** là một mũi cát hẹp nhô ra biển ở cuối phía Bắc của vịnh Golden ở Đảo Nam, New Zealand. Nó được những người Māori biết
**Mũi đất** hay **mũi biển** là phần đất nằm kề biển với 3 mặt là nước bao quanh. ## Địa chất và địa lý học Mũi đất thường bao bọc vịnh biển. Những mũi đất
phải|Mũi nhô trong tương quan so sánh với các địa hình ven biển khác **Mũi nhô** hay **mũi cát nhô** là một dạng địa mạo bồi tụ thường có mặt tại các đường bờ biển.
**_Chuông nguyện hồn ai_** (tiếng Anh: _For whom the bell tolls_) là tiểu thuyết được xuất bản năm 1940 của nhà văn Mỹ Ernest Miller Hemingway. Cuốn tiểu thuyết viết về Robert Jordan, một người
**_U-94_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-97_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-432_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
Grönland **Greenland** (tiếng Greenland: _Kalaallit Nunaat_, nghĩa "vùng đất của con người"; tiếng Đan Mạch: _Grønland_, phiên âm tiếng Đan Mạch: **Grơn-len**, nghĩa "Vùng đất xanh") là một quốc gia tự trị thuộc Vương quốc
**_U-203_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_2012: Năm đại họa_** (tựa ) là một phim thảm họa của đạo diễn Roland Emmerich, phát hành năm 2009. Tác phẩm do Harald Kloser, Mark Gordon, và Larry J. Franco sản xuất, với kịch
**_U-98_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-109_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-124_** (tên lóng "Edelweissboot") là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940,
**_U-562_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-556_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-358_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-229_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**HMS _Ramillies_ (07)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Tên của nó được đặt theo trận Ramillies. _Ramillies_ từng hoạt động trong cả Chiến tranh Thế
Các tập Team up trong Power Rangers là những tập hợp tác giữa các siêu nhân trong series và các siêu nhân ở các series trước nhằm đánh lại cùng một kẻ thù, thực ra
**Mary của I Scotland** (tiếng Anh: _Mary, Queen of the Scots_; tiếng Pháp: _Marie Ire d’Écosse_; 8 tháng 12, 1542 – 8 tháng 2, 1587), thường được gọi là **Nữ vương Mary**, **Nữ hoàng Mary**,
**Mikhail Yuryevich Lermontov** (tiếng Nga: Михаи́л Ю́рьевич Ле́рмонтов, 15 tháng 10 năm 1814 – 27 tháng 7 năm 1841) là nhà thơ lãng mạn, đồng thời cũng là một nhà văn và họa sĩ người
**_U-77_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_Pocoyo_** (tiếng Tây Ban Nha: _Pocoyó_, cách điệu là **_POCOYO_**) là một loạt phim truyền hình hài kịch tương tác mầm non của Tây Ban Nha do Guillermo García Carsí, Colman López, Luis Gallego và
, dịch là **_Chiến đội Liệt xa ToQger_** là bộ _Super Sentai_ thứ 38 của Toei Company, sau bộ _Zyuden Sentai Kyoryuger_. Bộ phim được phát sóng trên TV Asahi từ ngày 16 tháng 2,
**_U-108_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
**_U-568_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-521_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-52_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
**_U-110_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó chỉ kịp
**_U-405_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**Tina Turner** (tên khai sinh: **Anna Mae Bullock**; 26 tháng 11 năm 1939 – 24 tháng 5 năm 2023) là nữ ca sĩ, vũ công, diễn viên và nhà văn sinh tại Mỹ, có sự
_U-176_ là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-201_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-436_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-413_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-553_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
_U-155_ là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-381_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-202_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-210_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó chỉ thực
**_U-223_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**Cổ Long** (1938 - 1985; tiếng Trung: 古龍) là nhà văn Đài Loan viết tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng. Ông cũng là nhà biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn. Các tác phẩm
**_U-557_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-597_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**_U-596_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-254_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-125_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-262_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-258_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-271_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực