✨U-606 (tàu ngầm Đức)
U-606 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện được ba chuyến tuần tra, đánh chìm được ba tàu buôn với tổng tải trọng , đồng thời gây hư hại cho hai chiếc khác tổng tải trọng . Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-606 bị các tàu khu trục ORP Burza của Hải quân Ba Lan và tàu cutter của Tuần duyên Hoa Kỳ đánh chìm trong Đại Tây Dương về phía Đông Newfoundland vào ngày 22 tháng 2, 1943.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
thumb|left|Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.
Chế tạo
U-606 được đặt hàng vào ngày 22 tháng 5, 1940,
Chuyến tuần tra thứ hai
U-606 khởi hành từ Bergen vào ngày 17 tháng 10 cho chuyến tuần tra hai. Nó rồi băng qua khe GI-UK giữa quần đảo Faroe và Iceland để vòng qua quần đảo Anh và hoạt động tại khu vực giữa Bắc Đại Tây Dương. Tại đây vào ngày 28 tháng 10, nó phóng ngư lôi tấn công Đoàn tàu HX-212, đánh trúng và gây hư hại cho chiếc tàu xưởng săn cá voi Na Uy Kosmos II ở vị trí khoảng về phía Đông Nam mũi Farewell, Greenland; Kosmos II bị tàu ngầm U-624 kết liễu một ngày sau đó.
Cùng trong ngày 28 tháng 10, U-606 cũng đã đánh chìm chiếc tàu chở dầu Hoa Kỳ Gurney E. Newlin , cùng thuộc Đoàn tàu HX-212 và đã hư hại do trúng ngư lôi từ tàu ngầm U-436 một ngày trước đó. U-606 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến căn cứ Brest bên bờ Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 5 tháng 12. Vào ngày 22 tháng 2, nó đã phóng ngư lôi tấn công Đoàn tàu ON-166 ở vị trí về phía Đông St. John's, Newfoundland, đánh chìm các tàu buôn Anh Empire Redshank và tàu buôn Hoa Kỳ Chattanooga City , đồng thời gây hư hại cho chiếc tàu buôn Hoa Kỳ Expositor , mà sau đó bị tàu ngầm U-303 kết liễu.
Ngay sau đó, U-606 bị tàu khu trục ORP Burza của Hải quân Ba Lan, thuộc thành phần hộ tống cho Đoàn tàu ON-166, thả mìn sâu phản công và bị hư hại nặng. Khi chiếc U-boat trồi lên mặt nước, nó tiếp tục bị tàu cutter thuộc lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ tiếp tục tấn công bằng mìn sâu và hải pháo, và bị đánh chìm tại tọa độ . 36 thành viên thủy thủ đoàn của U-606 đã tử trận, và có 12 người sống sót được cứu vớt (5 người bởi Campbell và 7 người bởi Burza), và bị bắt làm tù binh chiến tranh.
"Bầy sói" tham gia
U-606 từng tham gia năm bầy sói:
- Puma (26 – 29 tháng 10, 1942)
- Natter (30 tháng 10 – 8 tháng 11, 1942)
- Kreuzotter (8 – 24 tháng 11, 1942)
- Falke (8 – 19 tháng 1, 1943)
- Haudegen (19 tháng 1 – 15 tháng 2, 1943)
Tóm tắt chiến công
U-606 đã đánh chìm được ba tàu buôn tổng tải trọng , đồng thời gây hư hại cho hai chiếc khác tổng tải trọng :