✨Môn đệ của Linnaeus

Môn đệ của Linnaeus

phải|nhỏ| Các nhà thám hiểm Daniel Solander (ngoài cùng bên trái) cùng [[Joseph Banks (trái, ngồi) tháp tùng James Cook (giữa) trong chuyến đi đến Úc.
Tác phẩm của John Hamilton Mortimer. ]] Các môn đệ của Linnaeus là một nhóm sinh viên, nhà thám hiểm đã thực hiện các chuyến đi nhằm thu thập các mẫu vật và tư liệu về thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới do nhà thực vật học Carl Linnaeus đề nghị hoặc chỉ định. Các cuộc thám hiểm diễn ra trong khoảng thời gian nửa sau thế kỷ 18 và các môn đệ được Linnaeus gọi là các ' tông đồ '.

Nhiều tông đồ đã bắt đầu cuộc hành trình từ Thụy Điển. Một số đóng vai trò là tuyên úy hoặc bác sĩ trên các con tàu của Công ty Đông Ấn Thụy Điển. Các chuyến đi thường tiềm tàng nhiều rủi ro. Bảy trong số mười bảy vị tông đồ đã không bao giờ trở về. Vị tông đồ đầu tiên, Christopher Tärnström, đã qua đời vì một cơn sốt nhiệt đới trên đảo Côn Sơn vào năm 1746. Người vợ còn sống của anh ta đã rất tức giận với Linnaeus vì đã khiến những đứa con của bà mồ côi cha. Sau sự việc này, Linnaeus chỉ lựa chọn những người đàn ông chưa kết hôn cho các chuyến hải trình.

Bản thân Linnaeus vẫn dính líu vào hầu hết các chuyến thám hiểm. Ông thường để lại các ghi chú cho các tông đồ nhắn gửi những gì họ nên chú tâm tìm kiếm trong cuộc hành trình của mình và các tông đồ sẽ gửi lại thư hồi đáp và các mẫu vật cho Linnaeus. Khi nhận được, Linnaeus sẽ tiến hành chọn lọc những mẫu vật thu thập được. Tuy nhiên, một trong các tông đồ là Daniel Rolander đã không đồng ý chuyển nhượng bộ sưu tập của mình và bị Linnaeus khiển trách.

Nhiều loài thực vật, động vật và côn trùng mới được phát hiện đã được Linnaeus và các tông đồ đặt tên và lập danh mục. Các chuyến đi của các tông đồ đã giúp phổ biến hệ thống phân loại sinh vật của Linnaeus. Ngoài ra, một trong những người hâm mộ Linnaeus, nhà thực vật học người Anh Joseph Banks, đã được truyền cảm hứng để khởi đầu truyền thống phải đặt trên tất cả các tàu nghiên cứu của Anh một nhà tự nhiên học. Do đó, các tông đồ đã có ảnh hưởng trực tiếp đến các chuyến thám hiểm sau này chẳng hạn như chuyến hải trình của Charles Darwin trên tàu HMS Beagle.

Nguồn gốc

nhỏ|Carl Linnaeus Carl Linnaeus sinh ra ở Råshult, Småland, Thụy Điển vào ngày 23 tháng 5 năm 1707. Ông học tại Đại học Uppsala để nghiên cứu về thực vật học và y học vào năm 1728. Sau khi tốt nghiệp, ông sang Hà Lan học y khoa. Khi ở Hà Lan, ông đã xuất bản Systema Naturae mô tả một hệ thống mới để phân loại thực vật.

Linnaeus trở về Thụy Điển vào tháng 5 năm 1741 và được bổ nhiệm làm Giáo sư Y khoa tại Đại học Uppsala. Chín năm sau, ông trở thành hiệu trưởng của trường đại học, bắt đầu một thời kỳ mà khoa học tự nhiên được coi trọng nhất.

Có lẽ đóng góp quan trọng nhất mà Linnaeus đã thực hiện trong thời gian ở Uppsala là với tư cách là một giảng viên. Các bài giảng của ông thường được tổ chức trong Vườn Bách thảo. Ông dạy học sinh nên biết lo cho bản thân và không nên hoàn toàn tin tưởng bất kỳ ai khác. Các chuyến quan sát thiên nhiên thứ Bảy vào mỗi mùa hè được thực hiện thường xuyên hơn cả các buổi thính giảng được tổ chức. Linnaeus cùng các sinh viên đã khám phá hệ động thực vật ở vùng xung quanh Uppsala.

Trong số các sinh viên xuất sắc nhất của Linnaeus, những con người đầy hứa hẹn và tận tâm nhất đã thực hiện các chuyến thám hiểm nhằm thu thập và nghiên cứu thực vật đến nhiều nơi khác nhau trên thế giới, thường là với sự giúp đỡ của người thầy của mình. Mười bảy nhà thám hiểm này được gọi là tông đồ của Linnaeus. Đôi khi ông sử dụng tầm ảnh hưởng của mình với tư cách là hiệu trưởng để cấp cho họ học bổng và vị trí trên các chuyến hải trình. Hầu hết các tông đồ đã được hướng dẫn về những thứ cần tìm trong cuộc hành trình. Họ đã thu thập, sắp xếp và phân loại thực vật, động vật và khoáng chất mới theo hệ thống phân loại của Linnaeus. Hầu hết đều trao lại bộ sưu tập của mình cho Linnaeus khi chuyến hành trình kết thúc.

Các tông đồ

Christopher Tärnström, Trung Quốc (1746)

Christopher Tärnström (1703–46) là vị tông đồ đầu tiên. Linnaeus đã cho phép Tärnström thực hiện một chuyến thu thập các mẫu thực vật tại Trung Quốc. Đầu năm 1746, Tärnström nhận được một chỗ ngồi miễn phí trên con tàu Calmar của Công ty Đông Ấn Thụy Điển đến Trung Quốc. Ông đã mang theo một danh sách do Linnaeus viết về những thứ cần thu thập, bao gồm thực vật, động vật và côn trùng. Tuy nhiên, Calmar phải dừng chân tại Côn Sơn (ngoài khơi bờ biển Việt Nam ngày nay) vì buộc phải tìm một chỗ neo vào mùa đông. Vào ngày 4 tháng 12 năm 1746, Tärnström qua đời vì một cơn sốt nhiệt đới mà không có mẫu vật thực vật hoặc động vật nào được gửi về Thụy Điển. Người vợ góa của anh đã đổ lỗi cho Linnaeus vì đã khiến những đứa con của cô mồ côi cha. Sau cái chết của Tärnström, Linnaeus chỉ cho phép những người đàn ông độc thân trở thành tông đồ của mình.

Pehr Kalm, Bắc Mỹ (1747–51)

nhỏ| Pehr Kalm
Pehr Kalm (1715–79) sinh ra ở Thụy Điển với cha mẹ là người Phần Lan và trở thành học trò của Linnaeus vào tháng 12 năm 1740. Ông đã đề xuất với Linnaeus một chuyến đi đến Bắc Mỹ cho mục đính thám hiểm và nghiên cứu. Linnaeus đồng ý và vào tháng 11 năm 1747 Kalm bắt đầu hành trình đến Bắc Mỹ với sự tài trợ của những trường đại học ở Uppsala và Åbo. Ông đã dừng chân một thời gian dài ở Anh trên đường đến Philadelphia vào mùa thu năm 1748. Khi đến nơi, ông đã ở lại Bắc Mỹ trong hai năm rưỡi, thăm các bang Pennsylvania, New Jersey, New York và miền nam Canada. Sau đó ông trở về Thụy Điển. Kalm là một trong số ít các tông đồ thực sự sống sót theo mong mỏi của Linnaeus; mang theo một bộ sưu tập lớn các loại cây và hạt giống đã được ép. Những trải nghiệm trong chuyến đi của ông sau đó được xuất bản trong một cuốn sách dài ba tập, En resa tới Norra America.

Fredric Hasselquist, Izmir, Ai Cập, v.v. (1749–52)

Fredric Hasselquist (1722–52) đã từng nghe Linnaeus kể về khu vực phía Đông Địa Trung Hải có hệ thực vật chưa được khám phá từ đó đã gây cho ông cảm hứng mãnh liệt để đi và để tìm hiểu. Do Hasselquist quá nghèo để có thể thực hiện chuyến đi, ông đã phải dựa vào nguồn tài trợ của Linnaeus và Olof Celsius. Ngày 7 tháng 8 năm 1749, Hasselquist đi thuyền từ Stockholm đến Izmir (một thành phố ở Thổ Nhĩ Kỳ), nơi ông đã trú chân qua mùa đông. Sau đó, ông tiếp tục đến Ai Cập, ở lại trong mười tháng trước khi trở về. Trên đường ông đã ghé lại Syria, Đảo Síp, Rhodes và Chios. Ông trở lại Izmir với một bộ sưu tập phong phú các phát hiện về thực vật và động vật và cả khoáng chất. Vào ngày 9 tháng 2 năm 1752, ông qua đời trước khi kịp trở về Thụy Điển. Trong chuyến đi của mình, ông đã tạo ra một khoản nợ lớn và Linnaeus được thông báo rằng bộ sưu tập và các ghi chép của Hasselquist sẽ không được gửi về cho đến khi khoản nợ được thanh toán. Nữ vương Thụy Điển Louisa Ulrika đã quyết định trả nợ thay và Linnaeus nhận được những mẫu vật của Hasselquist. Năm 1757, Linnaeus xuất bản Iter Palaestinium dựa trên các bộ sưu tập và bản thảo của Hasselquist.

Olof Torén, Surat (Ấn Độ) và Quảng Châu (1750)

Olof Torén (1718–53) du hành đến Surat, Ấn Độ với tư cách là một linh mục cùng với Công ty Đông Ấn Thụy Điển vào năm 1750. Ông tiếp tục đến Quảng Châu, Trung Quốc trước khi trở về Thụy Điển. Trong cuộc hành trình của mình, ông đã nhiều lần trao đổi thư từ với Linnaeus. Những bức thư này đã được xuất bản như một phụ lục trong nhật ký hành trình của một tông đồ khác, Pehr Osbeck sau khi Torén qua đời. Ông đã bị bệnh trong chuyến hành trình và mất ngay sau khi trở về vào năm 1753. Ông đã để lại một số lượng lớn các mẫu vật.

Pehr Osbeck, Trung Quốc (1750–52)

nhỏ|Pehr Osbeck Pehr Osbeck (1723–1805) đi thuyền từ Göteborg đến Trung Quốc vào năm 1750 trên tàu Prins Carl. Nhiệm vụ chính của ông là thu thập một loại cây chè cho Linnaeus. Sau dành bốn tháng tại Quảng Châu, nơi Osbeck thu thập được nhiều loại thực vật khác nhau nhưng không tìm được cây chè được yêu cầu. Ông trở lại Thụy Điển vào tháng 6 năm 1752 với bộ sưu tập của mình và một số mẫu vật khác mà ông đã trao lại cho Linnaeus.

Pehr Löfling, Tây Ban Nha và Venezuela (1751–56)

Pehr Löfling (1729–1756) được Linnaeus giới thiệu khi đại sứ Tây Ban Nha tại Stockholm yêu cầu trợ giúp trong việc khám phá hệ thực vật tại Tây Ban Nha. Löfling đã đến Madrid vào năm 1751 và ở lại trong khoảng hai năm. Ông đã khám phá hệ động thực vật và thường xuyên gửi các mẫu thực vật về cho Linnaeus. Năm 1754, người Tây Ban Nha tổ chức một chuyến thám hiểm đến Nam Mỹ và Löfling được mời tham gia cùng họ. Họ ban đầu dừng chân ở quần đảo Canary, lưu lại một thời gian ngắn trước khi tiếp tục đến Venezuela. Tại Venezuela, Löfling đã thu thập các mẫu thực vật với sự giúp đỡ của hai trợ lý của mình. Löfling ở lại Nam Mỹ cho đến khi qua đời vào ngày 22 tháng 2 năm 1756 tại Guyana.

Daniel Rolander, Suriname (1755)

Daniel Rolander (1725–93) đi cùng một người quen của Linnaeus, Carl Gustav Dahlberg, đến Suriname năm 1755. Mặc dù bị ốm trên đường đi, ông đã gần như hồi phục khi đến nơi. Tại Suriname, ông đã cố gắng khám phá các khu rừng nhiệt đới nhưng lại tỏ ra không ưa chuộng khí hậu nơi đây. Do chứng nghiện rượu của mình, sức khỏe của Rolander bắt đầu giảm sút. Ông đã ở lại Suriname trong bảy tháng và sau đó trở về với một bộ sưu tập bao gồm thực vật và côn trùng. Tuy nhiên, ông đã không trao lại bất cứ mẫu vật nào trong bộ sưu tập của mình cho Linnaeus. Điều này được cho là đã khiến Linnaeus "tức giận". Linnaeus, với quyết tâm mua lại các bộ phận trong bộ sưu tập của Rolander, đã đột nhập vào nhà của Rolander và được báo cáo là đã lấy trộm một cây Sauvagesia. Sự việc này đã chấm dứt mối quan hệ giữa hai người và Linnaeus đã nhiều lần được cho là đã chỉ trích Rolander.

Anton Rolandsson Martin, Spitsbergen (1758)

Anton Rolandsson Martin (1729–85) sinh ra ở khu vực là Estonia ngày nay. Ông sau đó đã đến Thụy Điển và trở thành học trò của Linnaeus. Linnaeus đã giúp Martin nhận được một khoản trợ cấp nhỏ từ Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển để đến Spitsbergen, một hòn đảo ở Bắc Băng Dương. Năm 1758, Martin tham gia một chuyến thám hiểm săn cá voi tại hòn đảo nhưng chỉ có thể vào bờ được vài giờ. Ông đã tìm cách thu thập các mẫu rêu và địa y.Mặc dù có rất ít mẫu vật mà Martin có thể mang về, nhưng chuyến thám hiểm của Martin đã nhận được sự khen ngợi từ Linnaeus.

Carl Fredrik Adler, Đông Ấn, Trung Quốc và Java (khoảng năm 1761)

Carl Fredrik Adler (1720–61) đi thuyền đến Đông Ấn vào năm 1761 trên một con tàu của công ty Đông Ấn Thụy Điển. Ông cũng đến thăm Trung Quốc và Java trong cùng chuyến đi. Ông sau đó qua đời cũng trong năm khởi hành khi vẫn ở Java. Tuy nhiên, trước khi qua đời, ông đã thành công trong việc gửi về một số mẫu vật cho Linnaeus từ Trung Quốc.

Pehr Forsskål, Ai Cập và Yemen (1761–63)

nhỏ|[[Pehr Forsskål]] Pehr Forsskål (1732–63) sinh ra ở Phần Lan và trở thành học trò của Linnaeus khi ông 18 tuổi. Forsskål đã được mời tham gia một chuyến thám hiểm với phái đoàn Đan Mạch do Vua Đan Mạch Frederick V ủy nhiệm đến Trung Đông. Ông đã xin ý kiến của Linnaeus và được chấp thuận. Mặc dù đó là một chuyến thám hiểm của Đan Mạch, Vua Frederick V đã tuyên bố rằng những phát hiện này sẽ không được đưa về Copenhagen cho đến khi các nhà thực vật học quốc tế, bao gồm Linnaeus đã nghiên cứu và chọn lọc chúng. Forsskål và đoàn thám hiểm lên đường vào mùa đông năm 1761. Điểm dừng chân đầu tiên của họ là Alexandria, Ai Cập. Forsskål đã thực hiện nhiều khám phá tại Suez và là một trong những người đầu tiên mô tả hệ động thực vật của Biển Đỏ. Chuyến thám hiểm đến Yemen vào tháng 4 năm 1763, nơi Forsskål tìm thấy Commiphora mà Linnaeus đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, Forsskål đã qua đời vì bệnh sốt rét vào ngày 11 tháng 7 năm 1763 trước khi ông có thể giao mẫu Commiphora lại cho Linnaeus. Forsskål đã viết nên quyển Flora Aegyptiaco-ArabicaDescriptiones Animalis trong chuyến thám hiểm. Các tác phẩm của ông được một thành viên khác của đoàn thám hiểm là Carsten Niebuhr xuất bản vào năm 1775.

Göran Rothman, Tunisia và Libya (1773–76)

Göran Rothman (1739–78) học y khoa tại Đại học Uppsala và thực hiện luận án của mình với sự giám sát và hỗ trợ bởi Linnaeus. Năm 1773 Rothman đến Bắc Phi dưới sự ủy quyền của Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển. Ông đã đến thăm Libya và Tunisia nhưng không thể đi sâu vào nội địa như mong muốn do tình hình bất ổn tại địa phương. Ông trở lại Thụy Điển vào năm 1776 với rất ít mẫu vật và phát hiện được mang về.

Johan Peter Falk, Nga (1768–74)

Johan Peter Falk (1732–74) đến Đại học Uppsala vào năm 1751 và trở thành một sứ đồ của Linnaeus. Ông đã đi theo Linnaeus trong chuyến thám hiểm đến đảo Gotland và sau đó trở thành gia sư cho con trai của Linnaeus, Carl. Năm 1760, Linnaeus đã gợi ý cho Falk đi theo cùng Forsskål trong chuyến thám hiểm của người Đan Mạch đến Ai Cập nhưng Falk không được người Đan Mạch đồng ý. Năm 1768, Viện Hàn lâm Khoa học Nga đã tạo ra một số cuộc thám hiểm để khám phá miền đông nước Nga. Nhờ Linnaeus, Falk được giao trách nhiệm thực hiện một trong những cuộc thám hiểm và quyết định lên đường cùng năm đó. Đoàn thám hiểm đã khám phá nhiều nơi ở Nga, bao gồm cả Volgograd và các vùng thảo nguyên. Falk đã khám phá và mô tả các phong tục bản địa cũng như cả hệ động thực vật. Trong cuộc hành trình, Falk bị nghiện thuốc phiện và điều đó khiến ông bị trầm cảm trong suốt chuyến thám hiểm. Năm 1774, đoàn thám hiểm đến Kazan, Falk đã tự sát. Sau khi qua đời, các bộ sưu tập và ghi chép của ông đã được gửi đến Saint Petersburg để sau đó được hoàn thiện và xuất bản với cái tên Beyträga zur topografischen Kenntniss des Russichen Reichs vào năm 1785–86 bởi Samuel Georg Gmelin.

Daniel Solander, Úc, v.v. (1768–71) và Iceland (1772)

nhỏ|Daniel Solander Daniel Solander (1733–82) sống trong nhà riêng của Linnaeus trong thời gian còn là sinh viên ở Uppsala. Linnaeus rất thích ông, hứa sẽ gả con gái lớn cho Solander và để ông trở thành người kế thừa những di sản của mình. Theo lời khuyên của Linnaeus, Solander đến Anh vào năm 1760, nơi ông đã phổ biến hệ thống phân loại Linnaean. Hai năm sau Linnaeus trao cho Solander chức giáo sư thực vật học ở Saint Petersburg. Linnaeus rất ngạc nhiên và thất vọng khi Solander trả lời rằng ông đã quyết định ở lại Anh. Điều này làm rạn nức mối quan hệ giữa họ và sau đó Linnaeus được cho là đã trách "Solander vô ơn." Năm 1768, Solander được nhà thực vật học người Anh Joseph Banks thuê để đi theo James Cook trong chuyến hành trình đầu tiên đến Thái Bình Dương trên tàu Endeavour. Endeavour đã đi đến Úc, Châu Á, Châu Phi và một số nơi khác, nơi Solander và Banks đã thực hiện nhiều khám phá về khoa học tự nhiên. Khoảng một năm sau chuyến thám hiểm, vào năm 1772, Solander và Banks thực hiện một cuộc hành trình nghiên cứu thực vật khác đến Iceland. Ông đã không bao giờ gửi bất cứ thứ gì từ bộ sưu tập của mình cho Linnaeus, nhưng lại tiếp tục sắp xếp các mẫu của mình theo hệ thống của Linnaeus.

Anders Sparrman, Trung Quốc (1765–67), Nam Phi (1771–72 và 1775) Châu Đại Dương, v.v. (1772–75) Senegal (1787)

nhỏ|Anders Sparrman Ngay cả trước khi trở thành một sứ đồ, Anders Sparrman (1748–1820) đã thực hiện một cuộc hành trình dài hai năm đến Trung Quốc với tư cách là bác sĩ phẫu thuật trên tàu của Công ty Đông Ấn Thụy Điển. Năm 1771, ông lên đường đến Nam Phi với tư cách là một trong những sứ đồ của Linnaeus, nơi ông hướng dẫn đoàn khám phá hệ động thực vật tại đây. Trong năm tiếp theo, ông được yêu cầu tham gia chuyến thám hiểm thứ hai của Cook trên chiếc tàu Resolution. Trong cuộc hành trình, ông đã ghé thăm và nghiên cứu hệ thống thực vật ở nhiều địa điểm khác nhau tại Châu Đại Dương và Nam Mỹ. Hai năm sau, ông trở lại Nam Phi với nhiều mẫu vật và phát hiện về thực vật học. Ông ở đó thêm tám tháng trước khi trở về Uppsala vào năm 1776. Năm 1787, ông đến Senegal trong một chuyến thám hiểm để tìm vùng đất thuộc địa. Ông đã xuất bản nhật ký hành trình của mình Resa till Goda Hopps-Upris, södra Polkretsen och omkring Jordklotet, samt cho đến Hottentott-och Caffer-Landen Åren 1772-1776 dài ba tập, trong năm 1783-1818.

Carl Peter Thunberg, Nam Phi, Nhật Bản, v.v. (1770–79)

nhỏ|Carl Peter Thunberg Cũng giống như Linnaeus, Carl Peter Thunberg (1743–1828) đến Uppsala năm 18 tuổi. Sau khi hoàn thành luận án của mình vào năm 1770, ông đến Paris. Trên đường trở về Thụy Điển, ông gặp Johannes Burman, bạn của Linnaeus ở Amsterdam. Với lời đề nghị của Burman, Thunberg trở thành bác sĩ phẫu thuật trong Công ty Đông Ấn Hà Lan. Ông tham gia một đoàn thám hiểm đến Nhật Bản, vào thời điểm đó chỉ có tàu Hà Lan được phép xâm nhập. Cuộc thám hiểm dừng lại ở Nam Phi vào năm 1772, và ở lại đó trong ba năm. Trong thời gian này, Thunberg đã tìm thấy 300 loài thực vật mới và gửi nhiều phát hiện của mình cho Linnaeus. Năm 1775, đoàn thám hiểm tiếp tục đến Java và sau đó đến Nhật Bản. Tất cả người nước ngoài ở Nhật Bản bị buộc phải ở trên đảo Dejima, ngoại ô Nagasaki, vì vậy Thunberg rất khó nghiên cứu hệ thực vật đại lục. Tuy nhiên, ông đã nhờ nhiều người phiên dịch mang cho ông một số mẫu vật đại lục để bổ sung vào bộ sưu tập thực vật mà ông tìm thấy và thu thập trong các khu vườn của Dejima. Lần duy nhất Thunberg có thể khám phá phong cảnh Nhật Bản là khi ông đến thăm vị shōgun ở Edo. Sau 15 tháng, ông trở lại Thụy Điển, trên đường đi ngang qua Sri Lanka, từ những phát hiện của mình ở Nhật Bản, Thunberg đã xuất bản Flora Japonica và từ những phát hiện của mình ở Nam Phi, ông đã xuất bản quyển Flora Capensis.

Andreas Berlin, Guinea (1773)

Andreas Berlin (1746–73) học tại Đại học Uppsala và là học trò Linnaeus trước khi đến London để tìm một chuyến thám hiểm thực vật. Năm 1773, ông đến Guinea với nhà tự nhiên học người Anh, Henry Smeathman. Mục đích của chuyến đi là khám phá các vùng đất trung tâm của châu Phi nhưng trước khi đến đất liền, Berlin đã chết vì bệnh dạ dày khi đang ở trên tàu Îles de Los. Trước khi ông qua đời, Berlin đã gửi một số mẫu cây cho Linnaeus.

Adam Afzelius, Sierra Leone (1792–96)

nhỏ|Adam Afzelius Adam Afzelius (1750–1837) tham gia một chuyến thám hiểm của người Anh đến Sierra Leone vào năm 1792 sau quá trình học tại Uppsala. Ông trở lại Thụy Điển vào năm 1796 sau khi thu thập nhiều mẫu vật mới, mà ông đã mô tả trong một số ghi chép về thực vật học của mình. Ông cũng đồng thời xuất bản quyển tự truyện của Linnaeus.

Nguồn tham khảo

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|nhỏ| Các nhà thám hiểm Daniel Solander (ngoài cùng bên trái) cùng [[Joseph Banks (trái, ngồi) tháp tùng James Cook (giữa) trong chuyến đi đến Úc.
Tác phẩm của John Hamilton Mortimer. ]] **Các môn
**Cua Huỳnh đế** (danh pháp hai phần: **_Ranina ranina_**) là một loài cua biển trong cận bộ Cua phân bố nhiều ở vùng biển phía Đông Nam Thái Bình Dương và các vùng biển Ôn
**Mạch môn**, **mạch môn đông**, **mạch đông**, **_tóc tiên_**, **_cỏ lan_**, **_lan tiên_** (danh pháp hai phần: **_Ophiopogon japonicus_**, đồng nghĩa: _Convallaria japonica_ Linnaeus f.; _Anemarrhena cavaleriei_ H. Léveillé; _C. japonica_ var. _minor_ Thunberg; _Flueggea
thumb|right|348x348px|Bìa của bài thơ có chủ đề tiến hóa của [[Erasmus Darwin, _Temple of Nature_ cho thấy một nữ thần vén bức màn bí ẩn của thiên nhiên (bên trong là Artemis). Tượng trưng và
**Hổ** hay còn gọi là **cọp**, **hùm** (và các tên gọi khác như **Ông ba mươi**, **kễnh**, **khái**, danh pháp khoa học: _Panthera tigris_) là một loài động vật có vú thuộc họ Mèo được
**Nai sừng tấm Á-Âu** (Danh pháp khoa học: _Alces alces_) là một loài thú trong phân họ Capreolinae thuộc họ hươu nai (Cervidae). Đây là loài thú to lớn nhất và nặng nhất còn tồn
**Peter Forsskål**, đôi khi còn được viết là **Pehr Forsskål**, **Peter Forskaol**, **Petrus Forskål** hay **Pehr Forsskåhl** (11 tháng 1 năm 1732 – 11 tháng 7 năm 1763), là một nhà thám hiểm người Phần
**Báo sư tử** (_Puma concolor_) hay **báo cuga** (tiếng Anh: **Cougar**) là một loài mèo lớn trong Họ Mèo phân bố ở Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Phạm vi của nó kéo dài
**Cá nhà táng** (danh pháp hai phần: _Physeter macrocephalus_, tiếng Anh: _sperm whale_), là một loài động vật có vú sống trong môi trường nước ở biển, thuộc bộ Cá voi, phân bộ Cá voi
**Động vật**, được phân loại là **giới Động vật** (**Animalia**, đồng nghĩa: **Metazoa**) trong hệ thống phân loại 5 giới. Cơ thể của chúng lớn lên khi phát triển. Hầu hết động vật có khả
**Khoai môn** (; **_Colocasia esculenta_**) là một loại rau ăn củ. Đây là loài được trồng rộng rãi nhất trong một số loài thực vật thuộc họ Araceae, được sử dụng làm rau để lấy
**_Panicum virgatum_**, một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo, thường được biết đến với tên gọi "switchgrass", là một loại cỏ bụi sống lâu năm mọc bản địa ở Bắc Mỹ vào
**Sư tử** (_Panthera leo_) là một trong những loài đại miêu của họ Mèo, chi Báo. Được xếp mức sắp nguy cấp trong thang sách Đỏ IUCN từ năm 1996, các quần thể loài này
**Người**, **con người**, **loài người** hay **nhân loại** (danh pháp khoa học: **_Homo sapiens_** hay **_Homo sapiens sapiens_**, nghĩa đen: **người tinh khôn**) là loài linh trưởng đông đảo và lan rộng nhất. Người có
**Khoai mỡ**, (danh pháp hai phần: **_Dioscorea alata_**) là một loài thuộc chi Củ nâu _Dioscorea_. Đây là loại dây leo cho củ được trồng nhiều ở Ấn Độ, Malaysia, Châu Phi. Đây là loại
**Erik Acharius** (10 tháng 10 năm 1757 – 14 tháng 8 năm 1819) là một nhà thực vật học Thụy Điển đi tiên phong trong việc phân loại các loài Địa y và được biết
**Tự nhiên** hay **thiên nhiên**, theo nghĩa rộng nhất, là thế giới hay vũ trụ mang tính vật chất. "Tự nhiên" nói đến các hiện tượng xảy ra trong thế giới vật chất, và cũng
**Chó** (Danh pháp khoa học: _Canis lupus familiaris_ hoặc _Canis familiaris_; Chó và sói xám thuộc nhóm chị em, Ông phân loại loài chó nuôi là _Canis familiaris_ (Linnaeus, 1758) và trong trang kế tiếp
**Rắn** là tên gọi chung để chỉ một nhóm các loài động vật bò sát ăn thịt, không có chân và thân hình tròn dài (hình trụ), thuộc phân bộ **Serpentes**, có thể phân biệt
**Chim** hay **điểu**, **cầm** (theo phiên âm Hán Việt) (danh pháp khoa học: **Aves**) là tập hợp các loài động vật có xương sống, máu nóng, đi đứng bằng hai chân, có mỏ, đẻ trứng,
**Sói xám** hay **chó sói xám**, hay đơn giản là **chó sói** (_Canis lupus_) là một loài động vật có vú thuộc Bộ Ăn thịt có nguồn gốc từ lục địa Á-Âu và Bắc Mỹ.
nhỏ|Các buồng chuối nấu ăn lớn **Chuối nấu ăn** là tập hợp gồm nhiều giống chuối thuộc chi _Musa_ có quả thường được sử dụng trong nấu ăn. Chuối này không thể ăn được khi
nhỏ|phải|Một con cá đang bơi **Trachinotus falcatus** hay còn được biết đến với tên gọi tiếng Anh là cá **Permit** (cá giấy phép) là một loài cá biển trong Họ Cá khế ở vùng phía
**Cá thù lù** (danh pháp: **_Zanclus cornutus_**) là loài cá biển duy nhất trong chi **_Zanclus_**, đồng thời cũng là duy nhất trong họ **Zanclidae**. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm
**Khổ qua** hay **mướp đắng** (danh pháp hai phần: **_Momordica charantia_**) với nhiều tên gọi được liệt kê bên dưới, là một loài thực vật thân thảo nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc họ
phải|nhỏ| Pehr Osbeck phải|nhỏ| _Osbeckia chinensis_, được vẽ bởi Osbeck **Pehr Osbeck** (9 tháng 5 năm 1723 - 23 tháng 12 năm 1805) là một nhà thám hiểm người Thụy Điển, nhà tự nhiên học
nhỏ|_Zea mays "fraise"_ nhỏ|_Zea mays "Oaxacan Green"_ thumb|_Zea mays "Ottofile giallo Tortonese"_ **Ngô**, **bắp** hay **bẹ** (danh pháp hai phần: _Zea mays_ L. ssp. _mays_), là một loại cây lương thực được thuần canh tại
: nhỏ|phải|Gà mái nhỏ|Gà con nhỏ|Gà trống **Gà** (danh pháp hai phần: _Gallus domesticus_) là một phân loài chim đã được con người thuần hóa cách đây hàng nghìn năm. Một số ý kiến cho
**Atisô** (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp _artichaut_ /aʁtiʃo/) (tên khoa học: _Cynara scolymus_), còn được viết là **a-ti-sô**, **a ti sô**, là loại cây lá gai lâu năm có nguồn gốc từ miền Nam
**Choắt mỏ nhác** (danh pháp hai phần: **_Limosa limosa_**) là một loài chim trong họ Dẽ. Nó là một loài chim bờ biển lớn, chân dài, mỏ dài, được Carolus Linnaeus vào miêu tả năm
Trong phân loại sinh học, **Phân loại giới Động vật** cũng như phân loại sinh học là khoa học nghiên cứu cách sắp xếp các động vật sống thành các nhóm khác nhau dựa vào:
**Bạch quả** (tên khoa học: **_Ginkgo biloba_**; 銀杏 trong tiếng Trung, tức là _ngân hạnh_ hay 白果 là _bạch quả_), là loài cây thân gỗ duy nhất còn tồn tại trong chi **_Ginkgo_**, họ Ginkgoaceae.
**Cá ngừ vằn** (Danh pháp khoa học: **_Katsuwonus pelamis_**), là một loài cá ngừ trong Họ Cá thu ngừ (Scombridae). Cá ngừ vằn còn được gọi là **aku**, **cá ngừ Bắc Cực**, **cá ngừ đại
**Sò mai** (tên khoa học **_Atrina pectinata_**) hay còn gọi là **sò biên mai** là một loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ thuộc họ sò, chúng sống ở sâu dưới đáy biển. Chúng
thumb|[[Cắt caracara đầu vàng đứng trên chuột lang nước.]] **Chuột lang nước** (tên khoa học **_Hydrochoerus hydrochaeris_**) là loài gặm nhấm lớn nhất thế giới thuộc Họ Chuột lang. Cũng được gọi là **capybara** và
**Lửng châu Âu** (_Meles meles_) là loài lửng bản địa thuộc chi _Meles_ ở châu Âu. Đây là loài bản địa hầu như khắp châu Âu. Nó sống trong hang và sống theo bầy đàn.
**Xương rồng Nopal** (_Opuntia ficus-indica_) gọi tắt là OFI là một loài xương rồng, một loài cây trồng quan trọng ở những vùng hoang mạc và bán hoang mạc trên thế giới. Có nguồn gốc
**Cá chai Ấn Độ** (Danh pháp khoa học: **_Platycephalus indicus_**) là một loài cá biển trong họ cá chai (Platycephalidae) sống tại vùng cửa biển. Đây là một loài cá có giá trị kinh tế,
thumb|Video tua nhanh của cây húng tây mọc mầm thumb|right|Húng tây mọc dưới ánh mặt trời thumb|right|Cây húng tây giai đoạn đầu thumb|right|Húng tây héo đang phân tán hạt thumb|Một con [[ong bầu cái đang
**Ngỗng nhà** hay **ngỗng nuôi** (Danh pháp khoa học: _Anser anser domesticus_ hay _Anser cygnoides_) là những con ngỗng được thuần hóa và chăn nuôi như một loại gia cầm để lấy thịt, trứng và
**Sổ bà _(Dillenia indica)**_, tên tiếng Anh là **elephant apple**, tên tiếng Thái: co má sản, là một loài _Sổ_ có nguồn gốc từ Vân Nam (Trung Quốc), Ấn Độ, Sri Lanka, Việt Nam, Thái
**_Acanthurus lineatus_** là một loài cá biển thuộc chi _Acanthurus_ trong họ Cá đuôi gai. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1758. ## Từ nguyên Tính từ định danh _lineatus_
**_Plukenetia volubilis_**, tiếng Quechua nơi cây mọc tự nhiên là _sacha inchi_. "Sacha" có nghĩa "cây, rừng, dại", còn "inchi" là "lạc, tức đậu phộng". Các ngôn ngữ cũng dựa theo đó gọi là **lạc
**_Centrolabrus exoletus_**, tên thông thường trong tiếng Anh là **rock cook**, là một loài cá biển thuộc chi _Centrolabrus_ trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1758.
**Virus**, thường được viết là **vi-rút** (bắt nguồn từ tiếng Pháp _virus_ /viʁys/), còn được gọi là **siêu vi**, **siêu vi khuẩn** hay **siêu vi trùng**, là một tác nhân truyền nhiễm chỉ nhân lên
**_Nguồn gốc các loài_** (tiếng Anh: _On the Origin of Species_) của Charles Darwin (xuất bản năm 1859) có thể được coi là một trong các ấn phẩm khoa học tiêu biểu và là tác
**Mãng cầu Xiêm**, còn gọi là **mãng cầu gai**, **na Xiêm**, **na gai**, **mãng cầu** (danh pháp hai phần: _Annona muricata_) (Tiếng Anh: **Soursop)** tùy theo vùng trồng, nó có thể có chiều cao từ
**Lúa** là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới, cùng với bắp (_Zea Mays_ L., tên khác: ngô), lúa mì (_Triticum_ sp, tên khác: tiểu mạch), sắn (_Manihot esculenta_ Crantz, tên
**Hải âu cổ rụt Đại Tây Dương** (danh pháp khoa học: **_Fratercula arctica_**) là một loài chim biển trong họ Alcidae. Đây là loài hải âu cổ rụt bản địa duy nhất của Đại Tây
**_Chromis chromis_** là một loài cá biển thuộc chi _Chromis_ trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1758. ## Từ nguyên Từ định danh _chromis_ có lẽ bắt