:Để biết về những người cùng tên, xin xem bài Mohammed IV.
Mehmed IV (tiếng Thổ Ottoman: Meʰmed-i rābi`; có biệt danh là Avcı, tạm dịch là "Người đi săn) (2 tháng 1 năm 1642 – 6 tháng 1 năm 1693) là vị Sultan thứ 19 của đế quốc Ottoman từ năm 1648 đến 1687. Mehmed IV lên ngôi khi mới 7 tuổi, và ông đã giao phần lớn quyền lực cho các Đại Vizia.Dưới thời trị vì của ông lãnh thổ Đế quốc Ottoman đã đạt đến lãnh thổ cực đại với 11,5 triệu km² và sau đó các lãnh thổ đều bị giảm sút một cách nhanh chóng
Đầu đời
Ông chào đời năm 1642 ở Cung điện Topkapı, tại kinh đô Constantinopolis, là con của Sultan Ibrahim I (1640–48) và Turhan Hatice, một cung nữ người Nga, và là cháu nội của Kösem Sultan người gốc Hy Lạp. Turhan Hatice được phong làm Thái hậu năm 1648 khi Mehmed lên ngôi Sultan. Ít lâu sau khi ông ra đời, cha mẹ ông cãi nhau, và Ibrahim giằng Mehmed từ tay Turhan Hatice rồi vứt cậu bé xuống giếng. May thay, Mehmed được các a hoàn cung điện cứu vớt. Hành động này của vua cha làm Mehmed bị sứt đầu, đó là một vết thương suốt đời của Mehmed.
Trị vì
Mehmed IV lên kế vị năm 1648 khi mới 7 tuổi. Ông thừa hưởng một đế quốc ngự trị trên ba châu lục do các sultan đời trước gây dựng nên. Sự đăng quang của ông đánh dấu kết thúc một thời kì đầy hỗn loạn của nhà Ottoman; điển hình như việc Mustafa I bị hạ bệ hai lần và hai Sultan bị giết sau đó, trong số đó có cả Ibrahim I, cha của Mehmed.
Cuộc chiến với những người Cossack
phải|[[Người Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ, họa phẩm nổi tiếng của Ilya Repin.]]
Một sự kiện xảy ra dưới thời Mehmed IV nay còn được phần lớn người Ukraina và Nga nhớ tới. Năm 1675 (Evarnickij 1895:517) hoặc 1678 (Golobuckij 1957:320) liên quân Thổ Nhĩ Kỳ - Krym đã tấn công pháo đài của người Zaporozhia ở Sic' (Sec' theo tiếng Nga) và bị đẩy lui. Sau thất bại đó, Mehmed IV đã gửi thư cho những người Cossack Zaporozhia, yêu cầu họ phải thần phục ông. Những người Zaporozhia đã từ chối làm theo yêu cầu của ông, họ đã trả lời ông bằng một bức thư dài với lời lẽ lăng mạ và báng bổ. Bức thư này được họa sĩ người Nga là Ilya Repin tái hiện trong bức tranh nổi tiếng vào thế kỷ XIX là Người Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ.
Tiếp đón Mary Fisher, nhà truyền giáo Quaker
Năm 1658 Mehmed IV đã đón tiếp và kiên nhẫn lắng nghe nhà truyền giáo Quaker người Anh là Mary Fisher, người tin rằng bà được Thượng đế gửi tới để nói chuyện với ông. Cuộc gặp gỡ này được biết chủ yếu thông qua ghi nhận rất có thiện chí của Fisher hơn là nguồn Ottoman, vì vậy người ta không rõ rằng sultan đã làm gì với thông điệp của bà (bản dịch đã được chuyển tới ông). Quan điểm cá nhân của ông, sự bao dung của ông thật trái ngược với những cuộc đàn áp tàn bạo mà Mary Fisher và những người Quaker khác phải hứng chịu ở quê nhà Anh Quốc.
Bị phế truất và qua đời
Năm 1687, Mehmed IV bị đạo quân Yeğen Osman và Cấm vệ quân Janissary hạ bệ. Sau đó, ông bị giam vào Cung điện Topkapi, em ông là Suleiman II lên thay. Dù vậy, ông được cho phép rời khỏi cung điện, và qua đời ở cung điện Erdine. Ông được chôn cất ở lăng mộ của mẫu hậu Turhan Hadice Sultan, gần thánh đường của bà ở Constantinopolis. Ít lâu trước khi ông mất năm 1691, một mưu đồ được khám phá ra rằng một nhóm giáo sĩ thâm niên có ý định phục hồi ngai vàng cho Mehmed, trong khi Suleiman II bị yếu tim.
Thành tựu
trái|Sultan Mehmed IV (1642 - 1693)
Sultan Mehmed IV được mệnh danh là Avcı, tạm dịch là "Người đi săn" vì ông có thú vui săn bắn.
Triều đại ông cho thấy sự lớn mạnh của đế quốc Ottoman được phục hưng dưới quyền vị Đại Vizia tài ba, Mehmed Köprülü và con trai là Fazıl Ahmet. Köprülü chiếm các đảo Aegean từ tay người Venezia và thành công trong chiến tranh với Transilvania (1664) và Ba Lan (1670–1674). Công trạng lớn nhất của Ahmet là chinh phạt Candia năm 1669. Vào thời kì đỉnh cao, khi bản thân Mehmed IV liên minh với Petro Doroshenko, Podolia và Ukraina nằm dưới quyền kiểm soát của Ottoman. (Xem thêm bài Những người Zaporozhe (tranh) để biết về bức thư ông gửi những người Cossack)
Vị Đại Vizia sau đó, Kara Mustafa ít thành công hơn. Được sự ủng hộ của cuộc khởi nghĩa của Imre Thököly ở Hungary chống lại hoàng đế Áo, Kara Mustafa phái một đạo quân vượt Hungary và bao vây thành Viên trong trận Viên. Trên đồi Kahlenberg, quân Ottoman bị đánh bại bởi vua Ba Lan Jan III Sobieski và đội quân chính quy của ông ta (1674–1695).
Ái phi của ông là Emetullah Rabia Gülnûş Sultan, vốn là 1 nô lệ bị cầm tù ở Rethymnon (Resmo Thổ Nhĩ Kỳ) tại đảo Crete. Hai người con của họ, Mustafa II và Ahmed III, nối tiếp nhau làm sultan của đế quốc Ottoman (1695-1703) và 1703-1730).
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
:_Để biết về những người cùng tên, xin xem bài Mohammed IV_. **Mehmed IV** (tiếng Thổ Ottoman: _Meʰmed-i rābi`_; có biệt danh là _Avcı_, tạm dịch là "Người đi săn) (2 tháng 1 năm 1642
**Sixtô IV** (Latinh: **Sixtus IV**) là vị giáo hoàng thứ 212 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1471 và ở ngôi Giáo
**Kazimierz IV Jagiellończyk** (tiếng Ba Lan: Kazimierz IV Andrzej Jagiellończyk ; tiếng Lithuania: Kazimieras Jogailaitis; 30 tháng 11 năm 1427 - 07 tháng 6 năm 1492) là vua của Ba Lan và là Đại công
**Đế quốc Ottoman** còn được gọi là **Đế quốc Osman** (; **', ; or **'; ) hay **Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ**, là một Đế quốc trải rộng xuyên suốt Nam Âu, Trung Đông và
Bài này nói về **Biên niên sử của Đế quốc Ottoman** (1299-1922). Xem thêm bài Biên niên sử Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, để biết về biên niên sử của nhà nước hậu thân của
**Chiến tranh đảo Crete** (, ), còn được gọi là **Chiến tranh Candia** () hay **Chiến tranh Ottoman–Venezia lần thứ năm**, là một cuộc xung đột kéo dài từ năm 1645 đến năm 1669 giữa
**Michał Korybut Wiśniowiecki** (tiếng Litva: Mykolas I Kaributas Višnioveckis; còn có tên theo tiếng Anh là Michael I, ngày 31 tháng 5, 1640 - 10 tháng 11 năm 1673) là người cai trị của Khối
**Mustafa II** (còn có tên là **Mustafa Oglu Mehmed IV**) (1664 – 1703) là vị sultan thứ 22 của Đế quốc Ottoman từ ngày 6 tháng 2 năm 1695 tới ngày 22 tháng 8 năm
**Jan III Sobieski** (17 tháng 8 năm 1629 - 17 tháng 6 năm 1696) là một trong những vị vua nổi tiếng nhất của Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva, là vua
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
**Trận Viên** là trận chiến lớn đã diễn ra vào ngày 12 tháng 9 năm 1683 sau khi Viên (Áo bấy giờ) bị Đế quốc Ottoman bao vây trong vòng 2 tháng. Liên quân Ba
**Người Cossack Zaporozhia**, **Quân Cossack Zaporozhia**, **Quân đoàn Zaporozhia**, (, hoặc ) hoặc chỉ là **người Zaporozhia** () là những người Cossack sống bên kia (về phía hạ nguồn) các ghềnh sông Dnepr (Dnipro). Sich
**Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ** (Tiếng Đức: _Großer Türkenkrieg_), còn được gọi là **Chiến tranh Liên đoàn Thần thánh** (Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kutsal İttifak Savaşları_), là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế
nhỏ|[[Vương miện Thần thánh Hungary|Vương miện Thần thánh của Hungary (Vương miện của Thánh Stephen)]] **Lễ đăng quang của quốc vương Hungary** là một buổi lễ trong đó vua hoặc nữ vương của Vương quốc
nhỏ|Kara Mustafa Pasha **Merzifonlu Kara Mustafa Pasha** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman: مرزيفونلى قره مصطفى پاشا, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Merzifonlu Kara Mustafa Paşa_), (1634/1635 - 25 tháng 12, 1683) là một nhà quý tộc
**Eugène de Savoie-Carignan** (18 tháng 10 năm 1663 – 21 tháng 4 năm 1736), hay **François Eugène de Savoie**, thường được biết đến với biệt danh **Hoàng thân Eugène** (, , ), là một lãnh
**Ahmed III** (30 tháng 5 năm 1673 – 1 tháng 7 năm 1736) là vị hoàng đế thứ 23 của Đế chế Ottoman, trị vì từ năm 1703 cho tới khi từ ngôi vào năm
Ngày **2 tháng 1** là ngày thứ 2 trong lịch Gregory. Còn 363 ngày trong năm (364 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *366 – Một lượng lớn người Alemanni băng qua sông Rhine
**Ibrahim I** (5 tháng 11 năm 1615 – 12 tháng 8 năm 1648) là vị hoàng đế thứ 18 của Đế quốc Ottoman từ năm 1640 cho đến 1648. Là một trong những vị hoàng
Ngày **6 tháng 1** là ngày thứ 6 trong lịch Gregory. Còn 359 ngày trong năm (360 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *1066 – Harold Godwinson đăng quang quốc vương của Vương quốc
**Thái hậu** (chữ Hán: 太后; tiếng Anh: _Queen Dowager_, _Queen Mother_, _Empress Dowager_ hoặc _Empress Mother_) là một tước hiệu, danh từ để chỉ mẹ hoặc bà nội của vua tại các quốc gia Hán
**Bohdan Zynovii Mykhailovych Khmelnytskyi** (tiếng Ruthenia: Ѕѣнові Богданъ Хмелнiцкiи; ; 6 tháng 8 năm 1657) là một quý tộc Ruthenia và chỉ huy quân sự của người Cossack Ukraina với tư cách Hetman của Quân
**Trận Mohács thứ nhì** là trận đánh giữa đội quân của Sultan Mehmed IV của Đế quốc Ottoman, dưới sự chỉ huy của Suleyman Pasha và đội quân của hoàng đế Leopold I của Thánh
**Người Cô-dắc xứ Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ** (tiếng Nga: _Запорожцы пишут письмо турецкому султану_) là một họa phẩm anh hùng ca của tác giả Ilya Repin. Bức tranh sơn dầu rộng
**Năm 1642** (số La Mã: MDCXLII) là một năm thường bắt đầu vào thứ Tư trong lịch Gregory (hoặc một năm thường bắt đầu vào thứ Bảy của lịch Julius chậm hơn 10 ngày). ##
**Trận Podhajce** (6-16 tháng 10 năm 1667) diễn ra ở thị trấn Podhajce của Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva (nay là Pidhaitsi, miền Tây Ukraina), và khu vực xung quanh nó
**Người Ukraina** (, ) là một dân tộc Đông Slav bản địa tại Ukraina. Bản ngữ của người Ukraina là tiếng Ukraina. Đa số người Ukraina là tín đồ Chính thống giáo Đông phương, một
**Tỉnh Podolia** () là một eyalet của Đế quốc Ottoman. Thủ phủ là Kamaniçe (), nay thuộc tỉnh Khmelnytskyi, Ukraina. ## Lịch sử thumb|Doanh trại [[Đế quốc Ottoman|Ottoman trong thành phố Kamaniçe, thủ phủ tỉnh
**Khortytsia** (, ) là đảo lớn nhất trên sông Dnepr (Dnipro), dài 12,5 km và rộng 2,5 km. Đảo này là một phần của Vườn quốc gia Khortytsia. Ukraina. Đảo này đóng một vai trò quan trọng
**Nhà thờ Hồi giáo Süleymaniye** (, ) là một nhà thờ Hồi giáo hoàng gia đế quốc Ottoman nằm trên ngọn đồi thứ ba của Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Nhà thờ được ủy quyền xây
Dưới đây là **danh sách các nhà lãnh đạo nhà nước vào thế kỷ 18** (1701–1800) sau Công nguyên, ngoại trừ các nhà lãnh đạo trong Đế chế La Mã Thần thánh và các nhà
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
nhỏ|236x236px|Kafes, hay còn gọi là Phòng Trữ quân **Kafes** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman: قفس), nghĩa là "cái lồng", là một phần trong Hậu cung của Đế quốc Ottoman, nơi mà những hoàng tử hoặc
phải|nhỏ|Sultan [[Mehmed II cùng đoàn binh chiến thắng tiến vào thành Constantinopolis]]**Thành phố Constantinople**, kinh đô của Đế chế Đông La Mã, sụp đổ sau một cuộc vây hãm của Đế chế Ottoman kéo dài
**Mahmud II** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman: محمود ثانى, chuyển tự: Maḥmûd-u s̠ânî, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: II. Mahmud; 20 tháng 7 năm 1785 – 1 tháng 7 năm 1839) là Sultan của Đế chế
nhỏ|Lễ rửa tội của Władysław III tại [[Nhà thờ chính tòa Wawel|Nhà thờ Chính tòa Wawell, Kraków năm 1435.]] **Władysław III** Warneńczyk (sinh ngày 31 tháng 10 năm 1424 tại Cracow, mất ngày 10 tháng
nhỏ|Bức vẽ từ thế kỉ XV mô tả cảnh ba người đàn ông bị hành quyết bằng cách xẻ đôi. **Xẻ đôi người** là một hình thức xử tử được áp dụng tại nhiều nơi
**Istanbul** ( hoặc ; ), là thành phố lớn nhất, đồng thời là trung tâm kinh tế, văn hóa và lịch sử của Thổ Nhĩ Kỳ. Với dân số hơn 14 triệu người (2014), Istanbul
**Abdul Hamid I** (hay còn gọi là **Abdülhamid I**) (20 tháng 3 năm 1725 – 7 tháng 4 năm 1789) là vị sultan thứ 27 của đế quốc Ottoman. Ông đã trị vì từ năm
**Lãnh địa Sharif Mecca** ( _Sharāfa Makka_) hay **Tiểu vương quốc Mecca** là một nhà nước không có chủ quyền trong hầu hết thời gian nó tồn tại, nằm dưới quyền cai trị của các
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
trái|nhỏ|Ștefan III trên tem của [[Moldova]] trái|nhỏ|Ștefan III trên xu 20 lei cũ của [[România]] **Ștefan III** (cũng được biết đến với cái tên **Ștefan Đại đế** - trong tiếng România: _Ștefan cel Mare; Ștefan
**Madrid** () là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Tây Ban Nha. Dân số thành phố vào khoảng 3,4 triệu người, toàn bộ dân số của vùng đô thị Madrid ước tính
**Trận Varna** là một trận chiến đã diễn ra vào ngày 10 tháng 11 năm 1444 ở phía đông nước Bulgaria. Trong trận đánh này, Đế quốc Ottoman dưới sự chỉ huy của vua Murad
Bài này là một tổng quan về **lịch sử Trung Đông**. Để có thông tin chi tiết hơn, xem các bài viết riêng về lịch sử các quốc gia và các vùng. Để thảo luận
**Maximilian II** (31 tháng 7 năm 1527 – 12 tháng 10 năm 1576) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1564 cho đến khi ông qua đời năm 1576. Là thành viên của
**Manuel II Palaiologos** hoặc **Palaeologus** (Hy Lạp: Μανουήλ Β΄ Παλαιολόγος, _Manouēl II Palaiologos_) (27 tháng 6, 1350 – 21 tháng 7, 1425) là vị Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1391 đến 1425. ##
**Công viên hữu nghị Hungary-Thổ Nhĩ Kỳ** (, ) là công viên công cộng ở Csertő, vùng tây nam Hungary. Công viên được xây dựng để tưởng niệm Trận đánh Szigetvár diễn ra vào năm
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,
Một khẩu súng thần công của [[Đế quốc Nga.]] **Súng thần công** (tiếng Anh: _cannon_) là một loại pháo sử dụng thuốc súng hoặc thường là các loại nhiên liệu có nguồn gốc chất nổ