✨Maximilian III Joseph xứ Bayern

Maximilian III Joseph xứ Bayern

Maximilian III Joseph (tên đầy đủ: Maximilian III Joseph Karl Johann Leopold Ferdinand Nepomuk Alexander; 28 tháng 3 năm 1727 - 30 tháng 12 năm 1777) được mệnh danh là Người được yêu mến, là một Tuyển đế hầu của Đế quốc La Mã Thần thánh, đồng thời là Công tước cai trị xứ Bayern từ năm 1745 đến khi ông qua đời vào năm 1777. Khi ra đời, Maximilian mang trong mình một thân phận vô cùng cao quý, khi cha và ông ngoại đều là Hoàng đề của Đế quốc La Mã Thần thánh, trong người ông chảy 2 dòng máu của Hoàng tộc Wittelsbach và Hoàng tộc Habsburg.

Maximilian qua đời mà không để lại hậu duệ nam kế vị, nên dòng Bayern của Triều đại Wittelsbach đã tuyệt tự, cái chết của ông dẫn đến Chiến tranh Kế vị Bayern, cuối cùng Tuyển hầu xứ Bayern đã được thừa kế bởi người họ hàng xa của ông là Karl Theodore, Tuyển hầu xứ Pfalz. Năm 1799, Karl Theodor qua đời và cũng không có người thừa kế nam hợp pháp, nên ngai vàng Tuyển hầu xứ Pfalz và Tuyển hầu xứ Bayern lại được thừa kế bởi một người họ hàng xa khác là Maximilian, Công tước xứ Zweibrücken thuộc dòng Pfalz-Birkenfeld, kể từ đó cho đến khi chế độ quân chủ bị bãi bỏ ở Đức vào năm 1918, các vị quân chủ của xứ Bayern đều là hậu duệ của Maximilian xứ Zweibrücken.

Tiểu sử

thumb|Chân dung Maximilian khi còn là hoàng tử thumb|[[Xu bạc: 1 koventionsthaler của Bayern, với chân dùng của Maximilian III Joseph ở mặt trước, đúc năm 1755''']] Maximilian được sinh ra tại München, ông là con trai cả của Hoàng đế Karl VII của Đế quốc La Mã Thần thánh, mẹ ông là Maria Amalia của Áo, con gái của Hoàng đế Thánh chế La Mã Joseph I. Năm 1747, Maximilian kết hôn với người chị họ đầu tiên của mình là Maria Anna Sophia của Sachsen, nhưng cuộc hôn nhân này không mang lại cho họ bất kỳ người con thừa kế nào.

Thông qua mẹ mình, ông là cháu ngoại của Joseph I của Thánh chế La Mã và Karl V của Thánh chế La Mã, gọi Leopold I của Thánh chế La Mã là ông cố ngoại. Vì thế, Maria Theresia của Áo trên thực tế là bà ngoại họ của ông dù 2 người chênh nhau chỉ 10 tuổi.

Thời gian đầu cai trị Bayern

Sau khi cha của Maximilian qua đời vào tháng 01/1745, ông thừa kế ngai vàng của Tuyển hầu quốc Bayern, một đất nước đang trong tình trạng chiến tranh với Đại công quốc Áo (Xem chi tiếc tại Chiến tranh Kế vị Áo). Maximilian Joseph lúc đó ở tuổi 18, đang bị chi phối giữa 2 phái chủ hoà do mẹ ông và tư lệnh quân đội là Friedrich Heinrich von Seckendorff đứng đầu và phái chủ chiến do Bộ trưởng Ngoại giao, tướng Ignaz - Bá tước của Törring và Đặc sứ Pháp Chavigny lãnh đạo. Sau thất bại quyết định trong Trận Pfaffenhofen vào ngày 15/04, Maximilian Joseph nhanh chóng từ bỏ ý định tranh cử ngôi vị Hoàng đế của Thánh chế La Mã, làm hoà với Maria Theresia của Áo thông qua Hiệp ước Füssen, trong đó ở vị trí Tuyển đế hầu của Bayern, ông sẽ bỏ phiếu ủng hộ chồng của Maria Theresia là Đại công tước Francis Stephen của Tuscany lên tiếp nhận ngôi vị Hoàng đế của Đế chế La Mã Thần thánh.

Liên minh và cân bằng quyền lực với Áo

Trong Chiến tranh Bảy Năm, quân đội của Bayern chiến đầu bên phía Habsburg của Áo. Em gái của Maximilian Joseph là Maria Josepha của Bayern đã kết hôn với con trai của Nữ Đại Công tước Maria Theresia, sau được biết đến là Hoàng đế Joseph II của Thánh chế La Mã. Nhưng sự suy yếu của Vương quốc Phổ đã không mang lại ích lợi gì cho Tuyển hầu quốc Bayern vì quốc gia này là đối trọng duy nhất với Quân chủ Habsburg. Maximilian Joseph đã nỗ lực đưa đất nước của mình tránh khỏi việc bị lôi kéo vào các cuộc chiến tranh. Ngoài lực lượng dân quân, ông chỉ cử một lực lượng nhỏ gồm 4.000 người tham gia vào liên quân với Áo. Vào năm 1758/1759 (chỉ 1,5 năm sau chiến tranh), ông cho rút quân phụ trợ của Bayern ra khỏi liên quân với Áo. Cùng với Tuyển đế hầu Wittelsbach Charles Theodore của Palatinate, ông đã thực thi quyền trung lập trong các cuộc xung đột.

Cải cách đất nước

Maximilian Joseph là một nhà cai trị tiến bộ và khai sáng, đã có nhiều cải cách để phát triển đất nước. Ông khuyến khích nông nghiệp, công nghiệp, khai thác khoáng sản và bãi bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí của Dòng Tên. Năm 1747, Nhà máy sản xuất đồ sứ Nymphenburg được thành lập, bộ luật dân sự "Codex Maximilianeus bavaricus Civilis" được soạn thảo vào năm 1756. Năm 1759, ông cho thành lập Viện Khoa học và Nhân văn Bayern, được xem là viện hàn lâm đầu tiên của München. Trong nạn đói nghiêm trọng xảy ra vào năm 1770, Maximilian đã bán đi một số đồ trang sức để trả tiền nhập khẩu ngũ cốc, giúp giảm nạn đói. Cũng trong năm 1770, ông ban hành một sắc lệnh chống lại sự phung phí của Nhà thờ, điều này đã góp phần kết thục Kỷ nguyên Rococo tại Bayern.

Qua đời

Tháng 12/1777, Maximilian Joseph đi trên một xe ngựa qua München; trên chuyến đi, khi xe của ông qua tháp đồng hồ, vì cơ chế hoạt động của đồng hồ bị lỗi nên đổ chuông đến 77 lần liên tục. Maximilian cho rằng đây là điểm báo cho sự chấm hết của triều đại mình. Sau đó vài ngày, Maximilian lâm bệnh, đội bác sĩ hoàng gia gồm 15 người không thể nào chẩn đoán ra bệnh. Giáng sinh năm đó, các bác sĩ dựa vào các triệu chứng đã phát hiện ra Maximilian đang mắc phải bệnh Đậu mùa và đây là chủng "purple small pox" rất nguy hiểm ở thời điểm đó.

Vào ngày cuối cùng của tháng 12, ông đã qua đời mà không để lại một người thừa kế nào. Maximilian III Joseph được chôn cất trong hầm mộ của Nhà thờ dòng Theatine ở München.

Kế vị

Là nhánh cuối cùng của triều đại Wittelbach, bắt nguồn từ Ludwig IV của Thánh chế La Mã và cai trị Bayern từ thế kỷ XIV, cái chết không để lại con cái của Maximilian dẫn đến một cuộc tranh chấp quyền kế vị mà lịch sử gọi là Chiến tranh Kế vị Bayern, tuy ngắn ngủi và ít đổ máu, nhưng sự kiện này đã làm thay đổi sâu sắc cục diện chính trị châu Âu cận đại. Ngai vàng của Tuyển hầu quốc Bayern đã được trao lại cho người em họ xa của Maixmilian, là Tuyển hầu quốc của Palatine Karl Theodore, có nguồn gốc từ nhánh cao cấp của Nhà Wittelsbach.

Di sản văn hóa

Maximilian III Joseph đã ra lệnh cho François de Cuvilliés xây dựng Nhà hát Cuvilliés theo phong cách rococo lộng lẫy vào năm 1751 và Stone Hall của Cung điện Nymphenburg vào năm 1755. Ông cũng ra lệnh trang trí một số phòng của Cung điện Schleissheim Mới theo phong cách rococo.

Wolfgang Amadeus Mozart được Maximilian III Joseph tiếp đón, người giống như em gái của ông là Maria Antonia xứ Bayern, có năng khiếu về âm nhạc và sáng tác, nhưng do nhu cầu tiết kiệm nghiêm ngặt nên Mozart không thể nhận được một vị trí nào. Năm 1775, La finta giardiniera, một vở opera Ý của Wolfgang Amadeus Mozart, đã được trình diễn lần đầu tiên tại Nhà hát Salvatortheater ở Munich.

Năm 1770, Maximilian III Joseph đã thành lập tiền thân của Học viện Mỹ thuật Munich.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Maximilian III Joseph** (tên đầy đủ: _Maximilian III Joseph Karl Johann Leopold Ferdinand Nepomuk Alexander_; 28 tháng 3 năm 1727 - 30 tháng 12 năm 1777) được mệnh danh là **Người được yêu mến**, là
**Maximilian Joseph xứ Bayern** (gọi đúng hơn là **Maximilian Joseph tại Bayern**; tiếng Đức: _Maximilian Joseph in Bayern_; 4 tháng 12 năm 1808 – 15 tháng 11 năm 1888), thường gọi là **Max tại Bayern**,
**Karl Theodor** (11 tháng 12 năm 1724 – 16 tháng 2 năm 1799) là Bá tước Pfalz-Sulzbach từ năm 1733, sau cái chết của cha mình; từ năm 1742, sau cái chết của người họ
**Maximilian II** (11 tháng 7 năm 1662 - 26 tháng 2 năm 1726), còn được gọi là **Max Emanuel** hoặc **Maximilian Emanuel**, là nhà cai trị của Công quốc Bayern, thuộc Nhà Wittelsbach, và là
**Lịch sử Bayern** với những dẫn chứng, đã có từ dòng họ gia tộc Agilolfing với trung tâm ở Freising vào năm 555. Sau đó nó là một phần của đế quốc La Mã Thần
**Vương quốc Bayern** (Tiếng Đức:_ Königreich Bayern,_ tiếng Bayern:_ Kinereich Bayern_) là một quốc gia ở Trung Âu, được thành hình từ năm 1806. Nó bắt nguồn từ hiệp định hòa bình được ký kết
nhỏ|Bá tước Maximilian Joseph von Montgelas lúc 75 tuổi (tranh của Eduard von Heuss) **Nam tước Maximilian Carl Joseph Franz de Paula Hieronymus von Montgelas**, từ năm 1809 **Bá tước Montgelas**, (* 12. Tháng 9
thumb|Huy hiệu của [[Eugène de Beauharnais Công tước xứ Leuchtenberg]] **Công tước xứ Leuchtenberg** (tiếng Đức: _Herzog von Leuchtenberg_; tiếng Pháp: _Duc de Leuchtenberg_; tiếng Nga: _Герцог Лейхтенбергский_) là một tước hiệu được vua của
**Leopoldo II** (tiếng Ý: _Leopoldo Giovanni Giuseppe Francesco Ferdinando Carlo_; tiếng Đức: _Leopold Johann Joseph Franz Ferdinand Karl_; tiếng Anh là _Leopold John Joseph Francis Ferdinand Charles_; 3 tháng 10 năm 1797 – 29 tháng
**Maximilian xứ Baden** (tên đầy đủ: Maximilian Alexander Friedrich Wilhelm) là Thủ tướng cuối cùng của Đế quốc Đức và Vương quốc Phổ. Ông là con của Đại Công tử Wilhelm xứ Baden và Công
**Eugène Rose de Beauharnais, Công tước xứ Leuchtenberg** (; 03/09/1781 - 21/02/1824), là con trai duy nhất của Alexandre François Marie, Tử tước Beauharnais và Joséphine de Beauharnais, người vợ đầu tiên của Hoàng đế
**Amélie của Leuchtenberg** (tiếng Bồ Đào Nha: _Amélia Augusta Eugénia Napoleona de Leuchtenberg_; tiếng Pháp: _Amélie Auguste Eugénie Napoléonne de Leuchtenberg_; tiếng Đức: _Amélie von Leuchtenberg_; 31 tháng 07 năm 1812 - 26 tháng 01
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**Auguste của Leuchtenberg** (_Auguste Charles Eugène Napoléon de Beauharnais_; 09 tháng 12 năm 1810 - 28 tháng 03 năm 1835) là vương tế đầu tiên của Nữ vương Maria II của Bồ Đào Nha. Ngoài
**Therese xứ Sachsen-Hildburghausen hay Therese xứ Sachsen-Altenburg** (8 tháng 7 năm 1792 – 26 tháng 10 năm 1854) là Vương hậu Bayern thông qua hôn nhân với Ludwig I của Bayern. ## Thân thế trái|nhỏ|Therese
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một
thumb|Huy hiệu [[Georg Wilhelm, Bá tước xứ Zweibrücken-Birkenfeld]] **Nhà Palatinate-Birkenfeld** (tiếng Đức: _Pfalz-Birkenfeld_), sau này là **Palatinate-Zweibrücken-Birkenfeld**, nó là tên của một dòng nam của Tuyển hầu xứ Palatinate thuộc Triều đại Wittelsbach. Bá tước
**Wilhelm I** (tiếng Đức: _Friedrich Wilhelm Karl_; 27 tháng 9 năm 1781 – 25 tháng 6 năm 1864) là Vua của Württemberg từ ngày 30 tháng 10 năm 1816 cho đến khi ông qua đời
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Maximilian Joseph Eugene Auguste Napoléon de Beauharnais, Công tước thứ 3 xứ Leuchtenberg, Thân vương xứ Romanowsky** (02 tháng 10 năm 1817 - 01 tháng 11 năm 1852) là chồng của Mariya Nikolayevna của Nga
**Théodelinde của Leuchtenberg** (13 tháng 04 năm 1814 - 01 tháng 04 năm 1857), là một Công nữ người Pháp-Đức và là Bá tước phu nhân xứ Württemberg sau khi kết hôn với Wilhelm xứ
**Karl I của Württemberg** (tiếng Đức: _Karl Friedrich Alexander_; 6 tháng 3 năm 1823 – 6 tháng 10 năm 1891) là Vua của Württemberg, từ ngày 25 tháng 6 năm 1864 cho đến khi ông
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
**Charlotte của Bỉ** (Marie Charlotte Amélie Augustine Victoire Clémentine Léopoldine; 7 tháng 6 năm 1840 – 19 tháng 1 năm 1927), được biết đến với tên theo tiếng Tây Ban Nha là **Carlota**, bà sinh
**Hòa ước Westfalen** (, ) là tên gọi chung của 2 hiệp ước hòa bình được ký kết vào tháng 10 năm 1648 tại các thành phố Osnabrück và Münster của Westfalen. Hòa ước đã
**Nhà Beauharnais** còn được gọi là **Nhà Leuchtenberg** (phát âm là [bo.aʁ.nɛ]) là một gia đình quý tộc ở Pháp, Đức và Nga. Người đứng đầu hiện tại là Công tước xứ Leuchtenberg, hậu duệ
thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy ít hơn (được sử dụng cho đến năm 1915 thời Áo-Hung) thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy vừa phải
**María Luisa của Tây Ban Nha hay María Luisa de Borbón y Wettin** (tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de España_, tiếng Đức: _Maria Ludovica von Spanien_; 24 tháng 11 năm 1745 – 15 tháng
**Margarita Teresa của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Margarita Teresa de España_, tiếng Đức: _Margarethe Theresia von Spanien_; tiếng Anh: _Margaret Theresa of Spain_; 12 tháng 7 năm 1651 – 12 tháng 3
**Eugénie Hortense Auguste Napoléone**, được gọi là **Eugénie của Leuchtenberg** (tên đầy đủ: _Eugénie Hortense Auguste Napoléone Beauharnais_; 22 tháng 12 năm 1808 - 01 tháng 09 năm 1847) là một Công nữ Đức gốc
**Alexandre François Marie, Tử tước của Beauharnais** (28 tháng 5 năm 1760 - 23 tháng 7 năm 1794) là một nhân vật chính trị Pháp và tướng lĩnh trong Cách mạng Pháp. Ông là chồng
**Innsbruck** (, /ˈɪnʃprʊk/) là thủ phủ của bang Tirol miền tây nước Áo và là thành phố lớn thứ năm ở Áo. Thành phố này nằm ở vùng sông Inn giao với thung lũng Wipptal
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Chế độ quân chủ Habsburg** () hoặc **đế quốc Habsburg** là một tên gọi không chính thức giữa các nhà sử học của các quốc gia và tỉnh được cai trị bởi các chi nhánh
**Klemens Wenzel Lothar von Metternich** (15 tháng 5 năm 1773 – 11 tháng 6 năm 1859), được gọi ngắn gọn là **Klemens von Metternich** hoặc **Vương công Metternich**, là một chính khách và nhà ngoại
**Áo**, quốc hiệu là **Cộng hòa Áo**, là một quốc gia không giáp biển nằm tại Trung Âu. Quốc gia này tiếp giáp với Cộng hòa Séc và Đức về phía bắc, Hungary và Slovakia
**Eugène de Savoie-Carignan** (18 tháng 10 năm 1663 – 21 tháng 4 năm 1736), hay **François Eugène de Savoie**, thường được biết đến với biệt danh **Hoàng thân Eugène** (, , ), là một lãnh
thumb|Huy hiệu của [[Thurn và Taxis#Các Thân vương của Gia tộc Thurn và Taxis|Thân vương xứ Thurn và Taxis]] **Vương tộc Thurn và Taxi** (tiếng Đức: **Fürstenhaus Thurn und Taxis** ) là một gia đình