Marguerite xứ Bourbon (; 1211 – 12 tháng 4 năm 1256) là vương hậu của Navarra và Nữ bá tước phu nhân xứ Champagne từ năm 1232 đến năm 1253 với tư cách là người vợ thứ ba của vua Thibaut I của Navarra. Sau khi chồng qua đời, bà cai trị cả vương quốc và lãnh địa bá tước với tư cách nhiếp chính trong ba năm dưới danh nghĩa con trai của họ, Thibaut II của Navarra.
Hôn nhân
Marguerite sinh ra trong Gia tộc Dampierre, là con gái lớn của Archambaud VIII, Lãnh chúa của Bourbon. Mẹ bà là người vợ đầu tiên của cha cô, Alice xứ Forez, con gái của Guigues III, Bá tước xứ Forez. Archambaud là người giám sát của Bá tước Thibaut IV xứ Champagne. Marguerite mới được 15 tuổi nhưng bà đã trở thành vợ thứ ba của Bá tước xứ Thibaut góa vợ đã 32 tuổi vào ngày 12 tháng 9 năm 1232. Người vợ đầu tiên của ông, Gertrude xứ Dagsburg, đã bị ly hôn và qua đời. Trong khi người vợ thứ hai, Agnes xứ Beaujeu, cũng qua đời mà chỉ để lại một cô con gái, Blanche. Cuộc hôn nhân của họ là một trong hai cuộc hôn nhân duy nhất của những bá tước Champagne có sự chênh lệch tuổi tác đáng kể giữa vợ chồng, cuộc hôn nhân còn lại là của Henry I xứ Champagne và Marie của Pháp. Marguerite được thừa hưởng một của hồi môn lớn, nhưng có một điều khoản bất thường trong hợp đồng hôn nhân của bà quy định rằng chỉ một phần theo tỷ lệ sẽ được trả lại cho cha bà trong trường hợp bà qua đời mà không có con trong vòng chín năm đầu tiên của cuộc hôn nhân và không có gì nếu bà qua đời sau chín năm đã trôi qua. Chỉ khi hợp đồng kết thúc bằng sự hủy bỏ, như cuộc hôn nhân đầu tiên của cha mẹ bà và như của Theobald, thì toàn bộ số tiền mới được trả lại.
Trong khoảng thời gian nhiếp chính
Cuộc hôn nhân của Marguerite kéo dài 20 năm, trong đó bà sinh bảy người con. Năm 1234, bà trở thành vương hậu của Navarra khi Thibaut thừa kế vương quốc từ người chú ruột của mình, Sancho VII. Thông tin về cuộc đời của Margaret với tư cách là vương hậu dường như được biết đến một cách tương đối lu mờ. Tuy nhiên, cái chết của chồng bà vào năm 1253 đã khiến bà trở nên nổi bật hơn hẳn: con trai của họ, Theobald II của Navarre mới 18 tuổi, trong khi luật pháp của vương quốc yêu cầu nhà vua phải 21 tuổi mới có quyền kiểm soát quyền thừa kế của mình. Bà ngay lập tức phải đối phó với một cuộc khủng hoảng kế vị trong vương quốc. Mặc dù chồng của bà cũng là Bá tước Champagne, đã cư trú ở Navarra phần lớn thời gian sau khi ông lên ngôi hoàng gia, nhưng giới quý tộc của vương quốc không sẵn lòng chấp nhận con trai ông làm vua của họ. Marguerite đã ngăn chặn sự bùng nổ của một cuộc nổi loạn mở bằng cách đi cùng Thibaut con đến thủ đô Pamplona, và liên minh với Vương quốc láng giềng Aragon. Bà cũng phải hứng chịu cuộc tranh chấp lâu dài của chồng với Hiệp sĩ Dòng Đền, người đã mua nhiều tài sản phong kiến ở Champagne bất chấp sự phản đối của ông. Marguerite kiên quyết cấm họ mua thêm đất trong lãnh địa.
Năm 1254, con trai Marguerite, Thibaut thuyết phục bà sắp xếp một cuộc hôn nhân của ông với Isabella, con gái của Vua Louis IX của Pháp. Vua Theobald II đã đến tuổi trưởng thành vào năm 1256. Không còn làm nhiếp chính, thái vương hậu Marguerite lui về vùng lãnh địa rộng lớn của mình, bao gồm bảy lâu đài (chiếm một phần ba doanh thu tiền công), nơi bà dành phần còn lại của cuộc đời. Bà qua đời ở Provins và được chôn cất tại Tu viện thánh Joseph xứ Clairval ở Flavigny-sur-Ozerain.
Hậu duệ
- Eleanor, chết non
- Theobald II của Navarre
- Pierre (qua đời 1265)
- Marguerite, kết hôn năm 1255 với Frederick III, Công tước xứ Lorraine và là mẫu thân của Theobald II xứ Lorraine.
- Beatriz của Navarra, Công tước phu nhân xứ Bourgogne với tư cách vợ của Hugues IV xứ Bourgogne.
- Enrique I của Navarra, kết hôn với Blanche xứ Artois
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Marguerite xứ Bourbon** (; 1211 – 12 tháng 4 năm 1256) là vương hậu của Navarra và Nữ bá tước phu nhân xứ Champagne từ năm 1232 đến năm 1253 với tư cách là người
**Isabelle của Pháp** (; 2 tháng 3 năm 1241 – 17 tháng 4 năm 1271) là con gái của Louis IX của Pháp và Marguerite xứ Provence. Bà đã kết hôn với Thibaut II của
**Marguerite xứ Angoulême** (tiếng Anh: _Marguerite of Angoulême_; tiếng Pháp: _Marguerite d'Angoulême_; 11 tháng 4, 1492 - 21 tháng 12, 1549), còn gọi là **Marguerite de Navarre**, là Tông nữ Pháp, Vương hậu Navarra và
**Marguerite của Pháp** (tiếng Anh: _Margaret of France_; 14 tháng 5, 1553 – 27 tháng 5 năm 1615), còn gọi là **Marguerite của Valois** (_Margueritet de Valois)_ hoặc **Vương hậu Margot** (_La reine Margot_), là
**Marguerite xứ Provence** (; 1221 – 20 tháng 12 năm 1295) là Vương hậu của Pháp với tư cách là phối ngẫu của Vua Louis IX. ## Cuộc sống ban đầu Marguerite sinh vào mùa
**Elisabeth của Áo** (; 5 tháng 7 năm 1554 – 22 tháng 1 năm 1592) là Vương hậu nước Pháp từ năm 1570 đến năm 1574 thông qua cuộc hôn nhân với Charles IX của
**Juana III của Navarra** (7 tháng 1, 1528 – 9 tháng 6, 1572), còn được gọi là **Jeanne III d'Albret** hoặc **Juana de Albret**, là Nữ vương của Vương quốc Navarra từ năm 1555 đến
**Blanca của Navarra** (; 1226 – 12 tháng 8 năm 1283), còn được gọi là **Blanca xứ Champagne** (), là con gái của Thibaut I, Vua của Navarra và Bá tước Champagne, và người vợ
**Nhà Bourbon** (; ; phiên âm tiếng Việt: _Buốc-bông_) là một hoàng tộc châu Âu có nguồn gốc từ Pháp, và là một nhánh của Nhà Capet cai trị Pháp. Tổ tiên đầu tiên của
**Thibaut II của Navarra** (, ; 6 hoặc 7 tháng 12 năm 1239 – 4 hoặc 5 tháng 12 năm 1270) là Vua của Navarra và cũng là Bá tước Thibaut V xứ Champagne ()
**Anne xứ Bretagne** (tiếng Pháp: _Anne de Bretagne_; tiếng Breton: _Anna Vreizh hay Anna Breizh_; 25 tháng 1 năm 1477 – 9 tháng 1 năm 1514), là Nữ công tước xứ Bretagne và Vương hậu
**Louise xứ Lorraine** (; 30 tháng 4 năm 1553 – 29 tháng 1 năm 1601) là Vương hậu Pháp khi kết hôn với Henri III của Pháp vào ngày 15 tháng 2 năm 1575 cho
**Henri xứ Bourbon** (; 13 tháng 12 năm 1553 – 14 tháng 5 năm 1610), cũng gọi là **Henri IV của Pháp** () hoặc **Enrique III của Navarra** (), là Vua nước Pháp từ năm
**Vương tộc Valois** ( , also , ) là một nhánh phụ của triều đại Capet. Vương tộc này kế vị Vương tộc Capet (hay "Nhánh chính Capet") lên ngai vàng Pháp, và là hoàng
thumb|[[Eugenia xứ Montijo, Hoàng hậu của Đế quốc Pháp. Một trong ba vị _"Hoàng hậu"_ trong lịch sử Pháp, và cũng là người cuối cùng.]] right|thumb|[[Maria Antonia của Áo, Vương hậu của Quốc vương Louis
**Leonor của Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: _Leonor de Castilla_; tiếng Anh: _Eleanor of Castilla_; năm 1241 – 28 tháng 11 năm 1290) là Vương hậu nước Anh từ năm 1272 đến năm 1290, và
**Felipe III** (, , ; 27 tháng 3 năm 1306 – 16 tháng 9 năm 1343), là một vị vua của vương quốc Navarra từ năm 1328 cho đến khi ông qua đời. Felipe sinh
**Maria của Medici** (tiếng Ý: _Maria de' Medici_; tiếng Pháp: _Marie de Médicis_; 26 tháng 4, năm 1573 – 3 tháng 7, năm 1642) là Vương hậu nước Pháp và Navarra, hôn phối thứ hai
nhỏ|phải|Vương cung thánh đường Saint-Denis **Vương cung Thánh đường Thánh Denis** (tiếng Pháp: _basilique Saint-Denis_ hay _cathédrale Saint-Denis_) là một nhà thờ chính tòa Công giáo, và trước đây là một đan viện dòng Biển
**Louis I de Bourbon, Thân vương xứ Condé** (7 tháng 5 năm 1530 – 13 tháng 3 năm 1569) là một nhà lãnh đạo và tướng quân nổi tiếng của Kháng cách Pháp (Huguenot), người
**Caterina de' Medici** (; – ), hoặc **Catherine de Médicis** theo tiếng Pháp, là một nữ quý tộc người Ý và trở thành Vương hậu nước Pháp từ năm 1547 đến năm 1559, với tư
**Maria Antonia của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia von Österreich_; 2 tháng 11 năm 1755 – 16 tháng 10 năm 1793), nguyên là Nữ Đại công tước Áo, thường được biết đến với tên Pháp
**Charles IX** (**Charles Maximilien**; 27 tháng 6 năm 1550 – 30 tháng 5 năm 1574) là Vua của Pháp từ năm 1560 cho đến khi qua đời vào năm 1574. Ông lên ngôi Pháp sau
**Bá quốc Foix** (tiếng Pháp: _Comté de Foix_; tiếng Occitan: _Comtat de Fois_; tiếng Anh: _County of Foix_) là một thái ấp thời trung cổ ở miền nam nước Pháp, và sau này là một
**Chiến tranh Tôn giáo Pháp** là một chuỗi gồm tám cuộc tranh chấp giữa phe Công giáo và phe Huguenot (Kháng Cách Pháp) từ giữa thế kỷ 16 kéo dài đến năm 1598. Ngoài những
**Thảm sát Ngày lễ Thánh Barthélemy** là một loạt các vụ bạo động của những đám đông Công giáo chống lại người Kháng Cách Pháp (_Huguenot_) trong Chiến tranh Tôn giáo Pháp, được cho là