✨Juana III của Navarra

Juana III của Navarra

Juana III của Navarra (7 tháng 1, 1528 – 9 tháng 6, 1572), còn được gọi là Jeanne III d'Albret hoặc Juana de Albret, là Nữ vương của Vương quốc Navarra từ năm 1555 đến khi qua đời, tổng cộng 17 năm. Bà là vợ của Antoine de Bourbon, Công tước Vendôme, và là mẹ của Henri IV của Pháp, người lập ra Nhà Bourbon.

Bà được biết đến như một vị lãnh tụ tinh thần của nhóm Huguenot nước Pháp, có vai trò to lớn trong cuộc Chiến tranh tôn giáo Pháp.

Tiểu sử

Jeanne chào đời tại Saint-Germain-en-Laye, Yvelines vào ngày 7 tháng 1 năm 1528, là con gái của Quốc vương Enrique II của Navarra và Vương hậu Marguerite xứ Angoulême. Marguerite là chị của François I của Pháp, do đó Jeanne lớn lên trong triều đình Pháp. Ở tuổi lên 2, người cậu Francois đã đưa Jeanne đến Château de Plessis-lèz-Tours trong Loire Valley (Touraine), sống tách khỏi cha mẹ của bà. Jeanne thụ hưởng một nền giáo dục hoàn hảo, được giám hộ bởi Nhà nhân chủng học Nicholas Bourbon. Karl V, Hoàng đế La Mã Thần Thánh đã yêu cầu hứa hôn bà với con trai của ông, Felipe để giải quyết những vấn đề với Vương quốc Navarra.

Năm 1541, ở tuổi 13, Quốc vương François của Pháp gả bà cho Phú gia Wilhelm, Công tước xứ Jülich-Kleve-Berg, em trai của Anna xứ Kleve, vợ thứ tư của Henry VIII của Anh; nhưng cuộc hôn nhân vì chính trị này bị hủy bỏ bốn năm sau đó.

Năm 1547, sau khi François qua đời và Henri II lên kế vị, Juana kết hôn với Antoine de Bourbon, người sẽ thừa kế ngai vàng Pháp nếu Nhà Valois bị tuyệt tự. Buổi hôn lễ diễn ra ngày 20 tháng 10, năm 1548 tại Moulins, Bourbonnais. Cuộc hôn nhân đã hợp thức hóa công cuộc thống nhất các miền đất địa phương thuộc miền Bắc và miền Nam nước Pháp.

Nữ vương của Navarra

thumb|Tượng Juana de Albret (1848), đặt trong [[Vườn Luxembourg]] Không giống nước Pháp, chiếu theo Luật Salic chỉ có nam giới mới có quyền thừa kế ngôi Vương, Vương quốc Navarra chấp nhận quyền thừa kế cho nữ giới. Năm 1555, Enrique II của Navarra qua đời, Juana và chồng kế vị để trị vì Vương quốc. Navarra là một vương quốc nhỏ nằm vắt ngang rặng Pyrenees. Năm 1512, phần đất phía nam của vương quốc bị sáp nhập vào Tây Ban Nha. Tuy nhiên, triều đình cũng sở hữu những lãnh thổ khác bao gồm Béarns kế cận Navarra.

Giống mẫu thân Marguerite xứ Angoulême, người có chủ trương cải cách từ bên trong Giáo hội, và có thiện cảm với những người Huguenot, Juana dùng lãnh thổ của Vương quốc làm nơi ẩn náu cho những người Huguenot đang bị bách hại. Ngay trong năm đầu trị vì, Juana triệu tập một hội nghị gồm các mục sư Huguenot đang bị bao vây, sau đó bà công bố đức tin Kháng Cách (theo thần học Calvin) là quốc giáo của vương quốc.

Sự tranh chấp quyền lực giữa phe Công giáo và phe Huguenot nhằm nắm quyền kiểm soát triều đình và cả nước Pháp bùng nổ thành Chiến tranh Tôn giáo Pháp năm 1562. Antoine de Bourbon chọn theo phe Công giáo, nhưng bị thiệt mạng do bị thương trong lúc ông tham gia cuộc bao vây Rouen. Con trai của Jeanne, Henri, nay trở thành nhân vật số một trong thứ tự kế thừa ngôi báu nước Pháp. Dù được rửa tội (báp têm) theo nghi thức Công giáo Rôma, Henri được mẹ giáo dưỡng trong đức tin Kháng Cách.

Năm 1567, chiến tranh tái phát, Jeanne phải đến tị nạn tại La Rochelle, thành lũy của người Kháng Cách. Ở đó, bà chỉ huy những cuộc đàm phán tìm kiếm hòa bình. Đến năm 1570, diễn ra việc dàn xếp cuộc hôn nhân giữa Henri và Marguerite của Pháp. Jeanne từ trần tại Paris hai tháng trước khi cử hành hôn lễ. Nhiều lời đồn đại vào lúc ấy cho rằng Caterina de' Medici, mẹ của cô dâu, đã đầu độc bà.

Hôn nhân

Năm 1541, Jeanne kết hôn với Wilhelm, Công tước xứ Jülich-Kleve-Berg, nhưng cuộc hôn nhân này bị hủy bỏ năm 1545, họ không có con.

Ngày 20 tháng 10 năm 1548, Jeanne kết hôn với Antoine de Bourbon và có năm người con:

  • Enrique, Công tước xứ Beaumont (1551-1553)
  • Enrique III của Navarra (1553-1610)
  • Luis (1555-1557)
  • Magdalena (1556)
  • Catalina (1559-1604), kết hôn với Henri I, Công tước Lorraine năm 1599.

    Phả hệ

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Juana III của Navarra** (7 tháng 1, 1528 – 9 tháng 6, 1572), còn được gọi là **Jeanne III d'Albret** hoặc **Juana de Albret**, là Nữ vương của Vương quốc Navarra từ năm 1555 đến
**Felipe III** (, , ; 27 tháng 3 năm 1306 – 16 tháng 9 năm 1343), là một vị vua của vương quốc Navarra từ năm 1328 cho đến khi ông qua đời. Felipe sinh
**Juana II của Navarra** (; tiếng Basque: Joana II.a Nafarroakoa; ; 28 tháng 1 năm 1312 - 6 tháng 10 năm 1349) là nữ vương của Navarra từ năm 1328 cho đến khi bà qua
**Juana I của Navarra** (, , ; 14 tháng 1 năm 1273 – 31 tháng 3 hoặc 2 tháng 4 năm 1305) là nữ vương của Navarra và là nữ bá tước của Champagne từ
**Carlos III của Navarra** (tiếng Basque: _Karlos III.a Nafarroakoa_; tiếng Tây Ban Nha: _Carlos III de Navarra_; tiếng Pháp: _Charles III de Navarre_ 1361 - 8 tháng 9 năm 1425), còn được gọi là **Carlos
**Blanca I của Navarra** (, ; 6 tháng 7 năm 1387 – 1 tháng 4 năm 1441) là Nữ vương của Navarra sau khi cha bà Carlos III qua đời vào năm 1425 cho đến
**Isabel của Navarra** (1395 – 31 tháng 8 năm 1450) là con gái của Carlos III của Navarra và Leonor của Castilla. ## Thiếu thời Không lâu trước khi Isabel chào đời, mẹ của Isabel,
**Carlos II của Navarra** (, ; 10 tháng 10 năm 1332 - 1 tháng 1 năm 1387), còn gọi là **Carlos Xấu xa** (, ), là Vua của Navarra từ 1349–1387 và Bá tước xứ
**Blanca xứ Évreux** (; sinh khoảng năm 1331 – 5 tháng mười năm 1398), là vương tằng tôn nữ nước Pháp và Infanta của Navarra với tư cách là thành viên của Gia tộc Évreux
**María của Navarra** (tiếng Tây Ban Nha: _María de Navarra_; tiếng Pháp: _Marie de Navarre_; tiếng Anh: _Maria of Navarre_; 1329 – 29 tháng 4 năm 1347), còn gọi là **Marie xứ Évreux** () là
**Catalina của Navarra** (7 tháng 2 năm 1559 – 13 tháng 2 năm 1604) là một Nhiếp chính Vương nữ người Navarra. Catalina là con gái của Juana III của Navarre và Antoine xứ Vêndome.
**Antoine xứ Vendôme** (22 tháng 4 năm 1518 – 17 tháng 11 năm 1562), đôi khi được gọi là **Antoine xứ Bourbon**, là Vua của Navarre từ năm 1555 cho đến khi qua đời năm
**Marguerite của Pháp** (tiếng Anh: _Margaret of France_; 14 tháng 5, 1553 – 27 tháng 5 năm 1615), còn gọi là **Marguerite của Valois** (_Margueritet de Valois)_ hoặc **Vương hậu Margot** (_La reine Margot_), là
**Henri xứ Bourbon** (; 13 tháng 12 năm 1553 – 14 tháng 5 năm 1610), cũng gọi là **Henri IV của Pháp** () hoặc **Enrique III của Navarra** (), là Vua nước Pháp từ năm
**Juana của Navarra** (; , – 10 tháng 6 năm 1437) là Công tước phu nhân xứ Bretagne sau cuộc hôn nhân với Công tước Jeann IV. Bà cũng là Vương hậu Anh với tư
**Enrique I của Navarra** (, , ; khoảng 1244 - 22 tháng 7 năm 1274), còn gọi là **Enrique Béo mập** () là Vua của Navarra và Bá tước Champagne và Brie (với tư cách
**Philippe IV** (Tháng 4 / tháng 6 năm 1268 – 29 tháng 11 năm 1314), được gọi là **Philippe Đẹp Trai** (), là một vị Vua Pháp từ 1285 đến khi qua đời (là vị
**Isabelle của Pháp, cũng là Isabel của Navarra** ( hay _Isabelle de Navarre_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Francia_ hay _Isabel de Navarra_; ; 1295 - 22 tháng 8, 1385), có biệt danh là
**Jeanne của Pháp** (; 24 tháng 6 năm 1343, Châteauneuf-sur-Loire - 3 tháng 11 năm 1373, Évreux), còn được gọi là **Jeanne của Valois** (tiếng Pháp: _Jeanne de Valois_), là con gái của vua Jean
**Robert của Pháp và Navarra** ( 1296/1297 - 1308), là con út của quốc vương Philippe IV của Pháp và nữ vương Juana I của Navarra. Tuy chỉ sống một cuộc đời ngắn ngủi nhưng
**Philippe V của Pháp** (; khoảng 1292/93 - 3 tháng 1 năm 1322), hay **Felipe II của Navarra** (), biệt danh là **Philippe Cao kều** (), là vua Pháp và Navarra, đồng thời cũng là
phải|nhỏ|138x138px|Phù hiệu của quận mà Joan cai quản. **Jeanne III xứ Bourgogne** (1 hoặc 2 tháng 5 năm 1308 – 10 hoặc 15 tháng 8 năm 1347), hay còn được gọi là **Jeanne của Pháp**,
nhỏ|221x221px|Quốc huy được vương quốc Navarra sử dụng từ năm 1212. Dưới đây là **danh sách vua và nữ vương của vương quốc Pamplona**, sau là **vương quốc Navarra**. Vương quốc Pamplona tồn tại với
**Philippe VI của Pháp** (tiếng Pháp: Philippe; 1293 - 22 tháng 8 năm 1350), được gọi là _Fortunate_ (tiếng Pháp: _le Fortuné_) là bá tước của Valois, là vị vua đầu tiên của Pháp từ
**Marguerite xứ Angoulême** (tiếng Anh: _Marguerite of Angoulême_; tiếng Pháp: _Marguerite d'Angoulême_; 11 tháng 4, 1492 - 21 tháng 12, 1549), còn gọi là **Marguerite de Navarre**, là Tông nữ Pháp, Vương hậu Navarra và
**Catalina của Aragón và Castilla**, (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina de Aragón y Castilla_; tiếng Anh: _Catherine of Aragon_; tiếng Đức: _Katharina von Aragon_; tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina de Aragão e Castela_; tiếng Pháp:
**Anna xứ Kleve hay gọi là Anna xứ Jülich-Kleve-Burg** (tiếng Đức: _Anna von Kleve/Anna von Jülich-Kleve-Burg;_ tiếng Anh: _Anne of Cleves/Anne of Jülich-Cleves-Burg_; Tiếng Tây Ban Nha: _Ana de Cléveris/Ana de Jülich-Cléveris-Berg_; 22 tháng 9,
**Mary I của Anh** (tiếng Anh: _Mary I of England_; tiếng Tây Ban Nha: _María I de Inglaterra_; tiếng Pháp: _Marie Ire d'Angleterre_; tiếng Đức: _Maria I. von England_; tiếng Ý: _Maria I d'Inghilterra;_ 18
**Caterina de' Medici** (; – ), hoặc **Catherine de Médicis** theo tiếng Pháp, là một nữ quý tộc người Ý và trở thành Vương hậu nước Pháp từ năm 1547 đến năm 1559, với tư
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
**Françoise xứ Alençon** (1490 – 14 tháng 9 năm 1550) là con gái lớn của René I xứ Alençon và Marguerite xứ Lorraine-Vaudémont, cũng như là em gái của Charles IV xứ Alençon. Là em
**Bá quốc Foix** (tiếng Pháp: _Comté de Foix_; tiếng Occitan: _Comtat de Fois_; tiếng Anh: _County of Foix_) là một thái ấp thời trung cổ ở miền nam nước Pháp, và sau này là một
**Louis I de Bourbon, Thân vương xứ Condé** (7 tháng 5 năm 1530 – 13 tháng 3 năm 1569) là một nhà lãnh đạo và tướng quân nổi tiếng của Kháng cách Pháp (Huguenot), người
**François Viète, lãnh chúa vùng Bigotière** (_François Viète, Seigneur de la Bigotière,_ tiếng La Tinh: _Franciscus Vieta, phiên âm: Phrăng-xoa Vi-ét, 1540 - 23 tháng 2 năm 1603)_ là nhà toán học người Pháp làm
**Vương tộc Valois** ( , also , ) là một nhánh phụ của triều đại Capet. Vương tộc này kế vị Vương tộc Capet (hay "Nhánh chính Capet") lên ngai vàng Pháp, và là hoàng
thumb|[[Eugenia xứ Montijo, Hoàng hậu của Đế quốc Pháp. Một trong ba vị _"Hoàng hậu"_ trong lịch sử Pháp, và cũng là người cuối cùng.]] right|thumb|[[Maria Antonia của Áo, Vương hậu của Quốc vương Louis
**Vương tộc Lancaster** (tiếng Anh: _House of Lancaster_; tiếng Pháp: _Maison de Lancastre_) là một nhánh của Vương tộc Plantagenet (giữ ngai vàng của Anh gần 3,5 thế kỷ, từ năm 1154 đến năm 1485).
**Louis xứ Évreux** (3 tháng 5 năm 1276 - 19 tháng 5 năm 1319, Paris) là một hoàng tử, con trai duy nhất của Vua Philippe III của Pháp và người vợ thứ hai Maria
**Jeanne xứ Bourgogne** (; 24 tháng 6 năm 1293 - 12 tháng 12 năm 1349), còn được biết với biệt danh **Jeanne Què quặt** (tiếng Pháp: _Jeanne la Boiteuse_), là một Vương hậu của Pháp
**Maria xứ Brabant** (13 tháng 5 năm 1254 – 12 tháng 1 năm 1322) là Vương hậu của Pháp từ năm 1274 đến năm 1285 với tư cách là vợ thứ hai của Vua Philippe
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Insulae_Sardiniae_novae_accurata_descriptio_-_Janssonius_Johannes,_1642-44.jpg|nhỏ|Huy hiệu của Vương quốc Sardegna từ thế kỷ 14 Sardegna ban đầu được cai trị bởi nền văn minh Nuragic, theo sau đó là cuộc xâm lược của Hy Lạp, bị người Carthage chinh
**Danh sách nguyên thủ quốc gia của Tây Ban Nha** đó là các vị vua và tổng thống cai trị Tây Ban Nha. Tiền thân là ngôi vua của các chủ thể trong lịch sử
Chế độ quân chủ tại Vương quốc Anh bắt đầu từ Alfred Vĩ đại với danh hiệu _Vua của Anglo-Saxons_ và kết thúc bởi Nữ vương Anne, người đã trở thành Nữ vương Vương quốc
Đây là **danh sách ­­­­­vị quân chủ Tây Ban Nha**, được xem là người cai trị của đất nước Tây Ban Nha theo nghĩa hiện đại của từ này. Tiền thân của ngôi vua Tây
Sinh khoảng năm [[1450, Cristoforo Colombo được thể hiện trong bức chân dung do Alejo Fernándõ vẽ giai đoạn 1505–1536. Ảnh chụp của nhà sử học Manuel Rosa]] **Cristoforo Colombo** (tiếng Tây Ban Nha: _Cristóbal