✨Lưu Quang Thế
Lưu Quang Thế (chữ Hán: 劉光世, 1086 - 1142), tên tự là Bình Thúc (平叔), nguyên quán ở Bảo An quân, tướng lĩnh triều Bắc Tống và Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc.
Thời Bắc Tống
Lưu Quang Thế là con trai thứ của Trấn Hải quân tiết độ sứ Lưu Diên Khánh. Ông chào đời năm 1086 thời vua Triết Tông triều Bắc Tống. Ban đầu, Lưu Quang Thế theo lệ phụ ấm được bổ làm Tam Ban phụng chức, sau đó thăng là Phu Diên lộ binh mã đô giám rồi Kì châu phòng ngự sứ. Năm Tuyên Hòa thứ ba (1122) tặc khấu Phương Lạp nổi dậy chống triều đình, Lưu Diên Khánh là Tuyên phủ ti đô thống được lệnh chống giặc, Quang Thế theo cha ra trận. Khi giặc bị bình xong, Lưu Quang Thế được phong là Diệu châu quan sát sứ rồi Phu Diên lộ binh mã kiềm hạt.
Về sau Tống liên minh với Kim để đánh Liêu nhằm khôi phục đất Yên, Lưu Quang Thế theo cha đến trấn giữ Dịch châu (một trong số 6 châu vùng Yên Vân mà triều Tống khôi phục lại được sau hiệp ước liên minh trên biển), được phong làm Phụng Quốc quân thừa tuyên sứ; sau đó đổi thành Uy Vũ, Phụng Ninh quân thừa tuyên sứ. Trong chiến dịch Yên Kinh, do Lưu Quang Thế hành quân đến chậm khiến quân Tống bại trận nên bị giáng quan ba cấp. Về sau giặc cướp ở Hà Bắc là Trương Địch cướp phá Tuấn châu, Quang Thế được lệnh đánh dẹp. Ông cho rằng quân giặc chỉ là một lũ ô hợp nên không khó đánh, rồi dùng kế rút lui để nhử địch, cuối cùng đánh bại được giặc. Do đó ông lại được làm Thừa tuyên sứ, sung Phu Diên lộ mã bộ quân phó tổng quản.
Thời Nam Tống
Phò tá Cao Tông
Năm 1126, quân Kim do Niêm Một Hát, Oát Li Bất chỉ huy tiến đánh Biện Kinh lần thứ nhất, nước Tây Hạ nhân cơ hội đó cũng cho quân cướp phá vùng Tử Bảo. Nơi đây có hai ngọn núi đối mặt với nhau tạo thành một địa thế hiểm yếu. Quang Thế cầm quân đánh dẹp, dựa vào địa thế này mà đánh lui quân địch, được thăng làm Thị vệ mã quân đô ngu hậu. Đến mùa thu năm đó, quân Kim lại tấn công Biện Kinh lần thứ hai, Lưu Quang Thế dẫn quân của mình làm việc cần vương. Lúc đó có Phạm Trí Khư truyền hịch chư lộ kéo vào giải nguy cho kinh đô. Sau đó triều đình lại muốn nghị hòa nên ra lệnh cho các lộ cần vương dừng lại, không tiếp tục đánh nữa; Lưu Quang Thế không đồng tình, nên giấu tờ chiếu không thông báo cho quân sĩ và cho rằng cần tiếp tục tiến quân nhanh hơn nữa. Lúc hợp quân với các lộ cần vương, binh sĩ của Quang Thế nghe tin kinh thành đã thất thủ nên rất lo sợ. Quang Thế trấn an họ rằng hai đế đã trốn thoát về nam (thực ra thì hai đế đã bị bắt), nên binh sĩ bình tĩnh trở lại rồi cùng ông tiến đến Thiểm phủ. Trí Khư lại dự định hợp năm lộ binh mã quyết chiến với người Kim, đoạt lại hai đế, Quang Thế cho là khó, nên dẫn quân đội của mình đến Tế châu yết kiến Khang vương. Vương phong ông làm Ngũ quân đô đề cử.
Giữa năm 1127, Vương lên ngôi hoàng đế, phong Lưu Quang Thế làm Tỉnh thị lăng tẩm sứ, rồi Đề cử cử ngự doanh sử ti, Hành tại đô tuần kiểm sứ. Sau đó ông lại lập công giết được giặc cướp Lý Dục ở Sơn Đông nên được phong Phụng Quốc quân tiết độ sứ. Về sau binh lính ở Trấn Giang làm loạn, Quang Thế dẫn quân đánh dẹp được nên được phong Giang Ninh phủ chế trí sứ. Tiếp đến ông lại được lệnh thảo phạt Trương Ngộ ở Trì châu. Ngộ xem thế trận thì đoán rằng có thể đánh bại được quan quân. Đúng là lần này thì quân triều đình bị đánh bại, nhưng Lưu Quang Thế được miễn tội nhờ sự biện hộ của Vương Đức. Về sau Trương Ngộ đưa quân đóng ở thượng lưu Trường Giang Lưu Quang Thế chỉnh đốn lại binh mã chống lại, truy kích quân của Trương Ngộ tới tận Giang châu và phá được. Lần tiếp theo Trương Ngộ lại đông hạ, Quang Thế cầm quân đón đánh, truy kích và phá tặc quân ở Giang Ninh. Miêu Phó vốn căm ghét Lưu Quang Thế vì ông có quan hệ mật thiết với nội thị Khang Lý (vừa bị Miêu, Lưu giết chết) nên giáng ông làm Thái úy, Hoài Nam chế trí sứ. Chưa đầy một tháng sau, Trương Tuấn ở Bình Giang truyền hịch cho chư lộ làm việc cần vương, Quang Thế ban đầu không nghe. Về sau có Lã Di Hạo sai sứ đến Trấn Giang thuyết phục, Quang Thế mới đồng ý, hội quân cùng các tướng ở Đan Dương. Khi quân cần vương tiến, Lưu Quang Thế cho tuyển thêm sĩ tốt làm du kích, nhưng chia quân điện hậu. Miêu Phó sai Miêu Dực và Mã Nhu Cát đến Lâm Bình kháng cự, Quang Thế cùng quân của bọn Hàn Thế Trung phá được rồi tiến vào hành tại, giải nguy cho Cao Tông. Do đó ông được phong làm Thái úy, Ngự doanh phó sứ. Ông lại sai Vương Đức hỗ trợ Kiều Trọng Phúc đang truy bắt Miêu Phó, đuổi Phó đến huyện Sùng An. Bộ hạ của Miêu Phó đầu hàng, Phó phải tiếp tục chạy trốn, về sau cũng bị Hàn Thế Trung bắt và giết. Về sau triều đình lập kế bắt được nghịch tướng Phạm Quỳnh, nhưng lại e sợ thế lực của Quỳnh ở bên ngoài sẽ làm loạn cứu nguy cho chủ. Quang Thế nhận lệnh của Trương Tuấn ra phủ dụ tướng sĩ dưới quyền Phạm Quỳnh, cuối cùng tất cả đều quy phục. Cao Tông xuống chiếu phong ông làm Giang Đông tuyên phủ sứ, trấn giữ Thái Bình và Trì châu, và tiết chế Đỗ Sung. Ông không đồng tình việc làm tiết chế cho Đỗ Sung, Cao Tông vô cùng tức giận, bèn hạ lệnh cấm ông vào điện môn, lúc đó ông đành phải nhận lệnh để phòng bị. Quang Thế đến nơi, ngày nào cũng uống rượu say khướt, không quan tâm đến tình hình bên ngoài. Người Kim đã vượt sông ba ngày mà ông cũng chẳng biết. Khi người Kim đến thì co giò bỏ chạy, khiến thái hậu cũng phải rút về Kiền châu. Phùng Tiếp gửi thư đến ông bảo rằng quân Kim vào sâu trong xứ người là điểm tối kị của binh gia, nay ông chỉ cần tuyển thêm tinh binh, dựa vào núi sông hiểm trở của vùng Giang Nam mà khéo léo nhử địch vào một con đường nào đó rồi dùng phục binh thì rất dễ chiến thắng. Ông không làm theo, mà đưa quân từ Tín châu về Nam Khang để giữ Hoài Nam. Khi Lịch Quỳnh đem quân bao vây huyện Cố Thủy, ông sai người đến chiêu hàng, rồi sai Vương Đức đánh và bắt được giặc cướp Vương Niệm ở Tín châu. Khi đó đội quân của ông chưa có tên, mọi người cứ gọi là thái úy binh. Thị ngự sử Thẩm Dự Cầu trình bày chuyện này, mới có lệnh lấy hai chữ tuần vệ làm tên cho đội quân của ông, ông được phong làm Ngự tiền Tuần vệ quân đô thống chế. Tiếp sau Cao Tông còn triệu ông tới hành tại, phong làm Chiết Tây An phủ đại sứ và tri Trấn Giang phủ. Ông cho rằng không thể tiếp nhận được tới hai nơi như vậy, nên chỉ xin chuyên tâm vào công việc của an phủ sứ. Ông lo sợ người Kim sẽ vượt sông, muốn phòng bị trước cho mình nếu triều Tống không còn, nên đã chiếm cứ rất nhiều đất đai của nông dân ở Chiết Giang, bị triều đình phát giác. Trong ngoài cực kì phẫn nộ việc làm của ông, nhưng Cao Tông vẫn làm ngơ không trị tội và còn phong ông làm Ninh Vũ quân tiết độ sứ, Khai phủ nghi đồng tam ti. Lúc ấy thì Hàn Thế Trung và Trương Tuấn cũng đang lĩnh chức Chiết Tây chế trí sứ, Lưu Quang Thế lại tấu rằng lộ Chiết Tây quá dư thừa binh mã, không thể bổ nhiệm tới ba người thống lĩnh, nên triều đình bãi chức của hai người kia.
Quân Kim chiếm đóng được Hoài Đông, Lưu Quang Thế sợ thế của chúng. Lúc người Kim bao vây Sở châu được 100 ngày, Cao Tông lệnh Quang Thế dẫn quân cứu viện nhưng ông không đi, mà sai Vương Đức và Lịch Quỳnh dẫn quân, còn mình thì quan sát xem cánh quân đó giết và bắt được bao nhiêu quân giặc để tấu công. Nhưng không lâu sau thì Sở châu bị phá, Cao Tông lệnh Quang Thế tiết chế chư trấn, bảo vệ các vùng Thông, Thái. Trong thời gian đó ông dùng kế khiến tướng Kim là Hoàn Nhan Xương phải lui quân khỏi Thừa, Sở. Năm Thiệu Hưng nguyên niên (1131), tháng ba, người Kim lại vượt sông Hoài; Dương châu lúc đó thiếu người trấn giữ, triều đình bèn phong ông kiêm làm Hoài Nam, Kinh Đông lộ tuyên phủ sứ, trí Tư Dương châu, ông không đi. Khi Trương Tuấn thảo phạt Lý Thành cũng viết thư kêu gọi ông đem quân giúp đỡ nhưng ông lấy cớ giặc cướp ở Giang Bắc đạo chưa bình dẹp xong mà từ chối. Sau đó triều đình mệnh ông kiêm Hoài Nam tuyên phủ sứ, lĩnh quân ở Chân, Dương châu và tiếp nhận công việc ở Sở châu. Khi đó có Quách Trọng Uy âm mưu chiếm cứ Hoài Nam theo hàng Ngụy Tề Lưu Dự, ông sai Vương Đức đem quân bắt được Trọng Uy và đánh bại quân của hắn. Trong triều tể tướng Phạm Tông Doãn bất bình với việc quân của ông tham nhũng và lãng phí, nên tố cáo với triều đình. Cao Tông bênh vực ông và không xử phạt. Trong lúc này thì nhiều người ở Hoài Bắc quy phục triều đình, Cao Tông mới ra lệnh phong Quang Thế kiêm Hải, Tứ châu tuyên phủ sứ để hướng dẫn họ. Thời gian này có Hạ Ninh tụ được hơn 1000 quân, thường bắt người ăn thịt cùng với dư đảng của Quách Trọng Uy quấy phá Hoài Nam, Thiệu Thanh chiếm cứ Thông Châu, Lưu Quang Thế đều chiêu hàng được. Ông tấu thỉnh triều đình ban cho mình ấn Hoài Đông lộ tuyên phủ sứ và tiền lương, cho phép tăng số tướng lại, được chấp nhận. Sau còn còn tâu xin cấp cho Trấn Giang phủ, Thường châu và Giang Âm quân 37 vạn mễ lương thực dùng làm quân nhu.
Năm 1132 có chiếu lệnh ông đến Dương châu, ông không phụng chiếu và đến Lâm An biện giải rằng bọn giặc cướp ở Chiết Tây vẫn còn nhiều nên nguyện vẫn thống lĩnh Chiết Tây làm bổn kế. Lúc ông đến kinh có mang theo nhiều châu báu và phương vật dâng tặng, Cao Tông bèn đem phân phát cho lục cung, Trung thừa Thẩm Dữ Cầu lại can ngăn nên vua quyết định trả hết số châu báu và phương vật cho ông.
Cuối đời
Năm 1139 ông được ban hiệu Phụ Quốc hòa chúng công thần, tiến phong Ung quốc công, Thiểm Tây tuyên phủ sứ. Năm 1140, người Kim kéo quân sang xâm lấn, vây Thuận Xương. Lưu Quang Thế được giao lại binh quyền, bái làm Thái báo, Tam Kinh chiêu phủ xử trí sứ để viện trợ cho Lưu Kĩ ở Thuận Xương. Ông tấu xin cho Lý Hiển Trung làm Tiền quân đô thống, Vương Đức làm tiết chế của Hiển Trung. Nhưng Vương Đức không muốn làm tiết chế, còn cánh quân của Hiển Trung tiến tới Túc, Tứ gặp tình thế bất lợi. Khi Quang Thế tiến tới Hòa châu thì Tần Cối đã khiến Cao Tông ra lệnh bãi binh. Quang Thế về triều, được phong Vạn Thọ quân sứ, đổi làm Dương Quốc công. Trong khi các tướng khác lần lượt bị Tần Cối gièm pha hãm hại, thậm chí bị giết thì Quang Thế biết giữ mình, không bị Tần Cối thù ghét.
Năm 1142, Lưu Quang Thế mắc bệnh, Cao Tông lệnh miễn khóa dịch cho gia đình của ông. Cùng năm đó ông qua đời, truy tặng thái sư, ban quan tước cho con cháu 14 người. Đặt thụy cho ông là Vũ Hi. Năm Can Đạo thứ 8 thời Tống Hiếu Tông (1172), truy phong An Thành quận vương. Năm Khai Hi nguyên niên (1205) thời Tống Ninh Tông, truy phong làm Phu vương.