✨Larsa

Larsa

right|thumb|[[Lưỡng Hà vào thời của Hammurabi]] Larsa (Sumer tốc ký: UD.UNUGKI, read Larsamki) là một thành phố quan trọng của người Sumer cổ đại, trung tâm của tín ngưỡng thờ thần mặt trời Utu. Nó nằm khoảng 25 km về phía đông nam Uruk tại tỉnh Dhi Qar của Iraq, gần bờ phía đông của kênh Shatt-en-Nil tại vị trí mà nay là khu định cư Tell as-Senkereh hoặc Sankarah.

Lịch sử

thumb|right|"Người thờ cúng của Larsa", một bức tượng nhỏ cúng dâng lên thần [[Amurru (thần)|Amurru cho sinh mệnh của Hammurabi, đầu thiên niên kỷ thứ 2 TCN, Louvre]] "Larsa" trong lịch sử đã tồn tại ngay từ thời vua Eannatum của Lagash, người sáp nhập nó vào đế chế của mình. Thành phố này đã trở thành một thực thể chính trị trong thời kỳ Isin-Larsa. Sau khi Triều đại thứ ba của Ur sụp đổ vào khoảng năm 2000 TCN, Ishbi-Erra, một viên quan của Ibbi-Sin, vị vua cuối cùng của triều đại Ur III đã tái di chuyển đến Isin và thiết lập một chính phủ có mục đích để kế thừa triều đại Ur III. Từ đó, Ishbi-Erra chiếm lại Ur cũng như các thành phố Uruk và Lagash, mà Larsa trở thành mục tiêu. Những nhà cai trị Isin tiếp theo bổ nhiệm các thống đốc cai trị Lagash; một thống đốc người Amorite có tên Gungunum. Cũng chính ông là người cuối cùng đã tuyệt giao với Isin và thành lập một triều đại độc lập ở Larsa. Để hợp pháp hóa nền thống trị của mình và giáng một đòn mạnh vào Isin, Gungunum đánh chiếm thành phố Ur. Vì khu vực của Larsa là trung tâm chính của thương mại thông qua vịnh Ba Tư, Isin đã đánh mất một tuyến đường thương mại vô cùng lợi nhuận, cũng như một thành phố với nhiều ý nghĩa thờ phụng.

Hai đời vua kế vị của Gungunum là Abisare (khoảng 1841-1830 c) và Sumuel (khoảng 1830-1801 TCN), đã có những bước cắt đứt hoàn toàn lối vào kênh rạch của Isin. Sau giai đoạn này, Isin nhanh chóng mất đi ảnh hưởng về mặt chính trị và kinh tế.

Larsa dần trở nên hùng cường, nhưng nó không bao giờ tích lũy được một lãnh thổ rộng lớn. Đỉnh điểm dưới thời vua Rim-Sin I (khoảng 1758 - 1699 TCN), Larsa chỉ kiểm soát khoảng 10-15 thị quốc khác — không nơi nào gần lãnh thổ được kiểm soát bởi các triều đại khác trong lịch sử Lưỡng Hà. Tuy nhiên, các dự án xây dựng lớn và cam kết nông nghiệp có thể được phát hiện qua những đợt khảo cổ. Sau khi Rim-Sin I bị vua Hammurabi của Babylon đánh bại, Larsa trở thành một tiểu quốc dù được cho rằng đó là quê hương của Vương triều Sealand thứ nhất của Babylon.

Larsa được cho là nguồn gốc của một số tấm bảng có liên quan đến nền toán học Babylon, bao gồm cả bảng Plimpton 322 có chứa mô hình của bộ ba số Pythagore.

Vua Larsa

Khảo cổ học

Phần còn lại của Larsa bao gồm một hình bầu dục khoảng 4,5 dặm trong chu vi. Điểm cao nhất là khoảng 70 feet chiều cao.

Khu di chỉ khảo cổ Tell es-Senkereh, về sau gọi là Sinkara, lần đầu tiên được William Loftus khai quật vào năm 1850 trong thời gian chưa đầy một tháng. Vào những ngày đầu của khảo cổ học, nỗ lực này chỉ tập trung nhiều hơn về việc thu thập mẫu vật bảo tàng hơn là dữ liệu khoa học và những chi tiết vụn vặt như các bức vẽ và văn khắc vẫn chưa được áp dụng phổ biến. Loftus cho phục hồi những viên gạch xây của Nebuchadnezzar II của Đế quốc Tân Babylon đó cho phép xác định địa điểm này chính là thành phố cổ Larsa. Phần lớn các nỗ lực của Loftus là vào đền thờ của Shamash, được tái thiết dưới thời vua Nebuchadnezzar II. Các chữ khắc của Burna-Buriash II thuộc Triều đại Kassite của Babylon và Hammurabi của Triều đại Babylon thứ nhất cũng đã được tìm thấy. Larsa còn được Walter Andrae tiến hành khai quật trong một thời gian ngắn nữa vào năm 1903. Khu di chỉ khảo cổ này lại được Edgar James Banks kiểm tra vào năm 1905. Ông phát hiện ra rằng nạn cướp bóc lan rộng bởi người dân địa phương đã xảy ra ở đó.

Đợt khai quật thời hiện đại đầu tiên mang tính khoa học của Senkereh xảy ra vào năm 1933, với công việc của Andre Parrot. Parrot làm việc tại vị trí một lần nữa vào năm 1967. Đến năm 1969 và 1970, Larsa được khai quật bởi Jean-Claude Margueron. Từ năm 1976 đến năm 1991, một đoàn thám hiểm của Phái đoàn Khảo cổ Francaise en Irak dưới sự dẫn đầu của JL. Huot đã tiến hành khai quật qua 13 đợt tại Tell es-Senereh.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
right|thumb|[[Lưỡng Hà vào thời của Hammurabi]] **Larsa** (Sumer tốc ký: UD.UNUGKI, read _Larsamki_) là một thành phố quan trọng của người Sumer cổ đại, trung tâm của tín ngưỡng thờ thần mặt trời Utu. Nó
phải|nhỏ| Bản đồ cho thấy phạm vi của Lưỡng Hà Lịch sử của **Lưỡng Hà** (**Mesopotamia**) trải dài từ khi bắt đầu có người định cư trong thời kỳ Hạ Sumaya cho đến thời cổ
**Đế chế Babylon Cổ**, hay **Đế chế Babylon thứ nhất**, là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad tại nam Lưỡng Hà (nay là Iraq), tồn tại trong k. 1894 TCN - k. 1595
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
**Sumer** (tiếng Akkad __; tiếng Sumer ) là một nền văn minh cổ đại và cũng để chỉ khu vực lịch sử ở phía nam Lưỡng Hà (Iraq ngày nay), bao gồm vùng đồng bằng
thumb|Tấm tượng quái vật bảo vệ mình bò có cánh, đầu người tại cung điện của [[Sargon II.]] **Assyria** là một vương quốc của người Akkad, ban đầu tồn tại với tư cách nhà nước
**Hammurabi** (phiên âm tiếng Akkad từ tiếng Amorite ˤ_Ammurāpi_; 1810 trước Công nguyên - 1750 trước Công nguyên) là vị vua thứ sáu của Babylon. Ông là vua đầu tiên của Đế quốc Babylon, dưới
**Babylon** (tiếng Hy Lạp: Βαβυλών, tiếng Akkad: _Babili_, _Babilla_) là một thành quốc của Lưỡng Hà cổ đại. Các di tích của thành quốc này được phát hiện ngày nay nằm ở Hillah, Babil, Iraq,
**Triều đại thứ ba của Ur,** hay còn gọi là **Đế quốc Tân-Sumer,** đề cập đến triều đại cai trị Sumer từ thế kỉ 22 đến thế kỷ 21 TCN, có lãnh thổ bao gồm
**Utu**, sau này được các dân tộc Đông Semit thờ phụng dưới tên **Shamash**, là vị thần Mặt trời của Lưỡng Hà cổ đại, thần của công lý, đạo đức và chân lý, và là
**Enheduanna** (Sumer: 𒂗𒃶𒌌𒀭𒈾 cũng được phiên âm là _Enheduana,_ _En-hedu-ana,_ hoặc biến thể; sống khoảng thế kỷ 23 TCN), là nhà thơ, nữ tu sĩ ở Lưỡng Hà cổ đại và là tác giả đầu
**Lưỡng Hà** (tiếng Anh: **Mesopotamia**) là một khu vực lịch sử ở Tây Á nằm trong hệ thống sông Tigris và Euphrates ở phía bắc của Lưỡi liềm màu mỡ. Ngày nay, Lưỡng Hà nằm
**Lịch sử Iran** hay còn được gọi là **lịch sử Ba Tư**, là lịch sử bao gồm nhiều đế quốc khác nhau trong suốt nhiều thiên niên kỷ qua tại Cao nguyên Iran và các
**Samsu-Iluna (Samsuiluna)**(khoảng 1792 - 1712 TCN), là vua của Babylon từ 1750 - 1712 TCN. Ông là con trai của Hammurabi, sử sách không nhắc đến mẹ ông. Triều đại của ông được đánh dấu
nhỏ|Đế chế Babylon dưới sự thống trị của người Kassites. **Người Kassite** là một dân tộc ở Cận Đông cổ đại đã chiếm được thành Babylon sau sự sụp đổ của đế quốc Cổ Babylon
**Lugal-Zage-Si** (thường viết là _Lugalzaggesi_, đôi lúc là _Lugalzagesi_ hoặc "Lugal-Zaggisi") của Umma (trị vì khoảng năm 2294-2270 TCN) là vị vua Sumer cuối cùng trước khi Sargon của Akkad chinh phục Sumer và sự
Vương quốc **in đậm** là vương quốc chứa nhiều các vương quốc nhỏ. ## Châu Phi * Ai Cập cổ đại - (3150 TCN - 30 TCN) * Vương quốc Kerma - (2500 TCN -
**Đế quốc Tân Babylon**, còn được gọi là **Đế chế Babylon thứ hai** và thường được các nhà sử học nhắc đến là **Đế chế Chaldea**, là đế quốc Lưỡng Hà lớn cuối cùng được
nhỏ|phải|Pippen trong màu áo Chicago Bulls năm 1995 **Scotty Maurice Pippen Sr.** (sinh ngày 25 tháng 9 năm 1965), thường được gọi là **Scottie Pippen**, là cựu vận động viên bóng rổ chuyên nghiệp người
nhỏ|Tượng của một "người Sumer cầu nguyện", Gudea, Sơ kỳ Triều đại (k. 2500 TCN) |328x328px **Tôn giáo Sumer** là tôn giáo được thực hành và thờ phụng bởi người Sumer, nền văn minh đầu
Các thành phố đầu tiên trong lịch sử đã được biết cho đến nay nằm ở vùng Cận Đông cổ đại, khu vực bao gồm phần lớn vùng Trung Đông hiện đại: có lịch sử
**Inanna** là một nữ thần Lưỡng Hà cổ đại gắn liền với tình yêu, sắc đẹp, tình dục, dục vọng, sinh sản, chiến tranh, công lý và quyền lực. Bà được thờ phụng ban đầu