✨Lao

Lao

Lao là bệnh truyền nhiễm qua đường hô hấp thường do vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây ra.

Lao lây truyền từ người sang người qua không khí khi người bệnh lao hoạt tính ho, khạc nhổ, nói, hay hắt hơi. Người mang lao tiềm ẩn không làm bệnh lây lan.

Cách thức phòng bệnh bao gồm tầm soát đối với người nguy cơ cao, phát hiện và điều trị sớm, chủng ngừa bằng vắc-xin BCG (Bacillus Calmette-Guérin). Người nguy cơ cao là người ở chung nhà, nơi làm việc, và tiếp xúc xã hội với bệnh nhân lao hoạt tính. Mỗi năm có thêm khoảng 1% dân số mắc bệnh. Trong năm 2018 có hơn 10 triệu người bị lao hoạt tính trong đó 1,5 triệu người tử vong, con số khiến lao là bệnh truyền nhiễm gây tử vong hàng đầu. Căn bệnh xuất hiện chủ yếu ở Đông Nam Á (44%), châu Phi (24%), Tây Thái Bình Dương (18%) với hơn 50% ca được chẩn đoán ở tám quốc gia là Ấn Độ (27%), Trung Quốc (9%), Indonesia (8%), Philippines (6%), Pakistan (6%), Nigeria (4%), và Bangladesh (4%). Khoảng 80% dân số ở nhiều nước châu Á, châu Phi xét nghiệm tuberculin dương tính còn với người dân Hoa Kỳ chỉ là 5–10%. Bệnh lao đã có ở người từ thời cổ đại.

Dấu hiệu và triệu chứng

Bệnh lao có thể tác động đến bất kỳ bộ phận nào của cơ thể nhưng phổ biến nhất là phổi (gọi là lao phổi).

Phổi

Nếu nhiễm khuẩn lao ở trạng thái hoạt động thì phổi là cơ quan hay bị tác động nhất (khoảng 90% ca). Triệu chứng gồm có đau ngực và ho ra đờm kéo dài. Lao có thể trở thành bệnh mãn tính và gây sẹo khắp những thùy phổi trên. Chúng được gọi chung là "lao ngoài phổi". Lao ngoài phổi xảy ra phổ biến hơn ở người có hệ miễn dịch suy yếu và trẻ em. Hơn một nửa số ca nhiễm HIV xuất hiện tình trạng này. Vi khuẩn này phân chia cứ 16 đến 20 giờ một lần, một tốc độ cực kỳ chậm so với những vi khuẩn khác thường phân chia trong chưa đến một tiếng. Mycobacterium có một màng ngoài hai lớp lipid. Nếu tiến hành nhuộm Gram thì M. tuberculosis hoặc "Gram dương" rất yếu hoặc không lưu giữ thuốc nhuộm do hàm lượng mycolic acid và lipid cao của thành tế bào. M. tuberculosis có thể chống chịu các chất tẩy uế yếu và sống sót trong môi trường khô vài tuần. Ngoài tự nhiên, M. tuberculosis chỉ có thể sinh trưởng trong tế bào của sinh vật chủ nhưng chúng có thể được nuôi trong phòng thí nghiệm.

Các nhà khoa học có thể nhận diện vi khuẩn lao dưới kính hiển vi nhờ tiến hành nhuộm các mẫu đờm dãi của người bệnh. Vì M. tuberculosis lưu lại những chất nhuộm nhất định kể cả sau khi được xử lý bằng dung dịch acid nên nó được xếp vào loại trực khuẩn kháng acid. và nhuộm Kinyoun khiến trực khuẩn có màu đỏ sáng nổi bật trên nền xanh. Nhuộm auramine-rhodamine và soi hiển vi huỳnh quang cũng được áp dụng.

Tổ hợp M. tuberculosis bao gồm bốn chủng Mycobacterium gây lao khác nhau: M. bovis, M. africanum, M. canetti, và M. microti. M. africanum không phổ biến nhưng là tác nhân gây lao đáng kể ở những vùng châu Phi. M. bovis từng là nguyên nhân phổ biến nhưng đã bị diệt trừ gần như hoàn toàn từ khi sữa thanh trùng xuất hiện và không còn là vấn đề ở các nước phát triển. M. canetti hiếm thấy và dường như hạn chế ở Sừng châu Phi, dù vậy đã quan sát thấy một vài ca ở những người châu Phi di cư. M. microti cũng không phổ biến và gần như chỉ thấy ở người bị suy giảm miễn dịch, dù vậy độ thịnh hành của nó có thể bị đánh giá thấp đáng kể.

Còn những Mycobacterium gây bệnh khác được biết là M. leprae, M. avium, và M. kansasii. M. aviumM. kansasii thuộc nhóm Mycobacterium không điển hình. Loại này không gây lao hay phong mà gây những bệnh phổi khác tương tự lao.

Lây truyền

Khi người bệnh lao hoạt tính ho, hắt hơi, nói, hát, hay khạc nhổ, họ bắn ra những giọt nước bọt nhỏ (aerosol) có đường kính 0,5 đến 5,0 µm chứa mầm bệnh. Một lần hắt hơi có thể bắn ra tới 40.000 giọt. Chỉ một giọt cũng có thể truyền bệnh bởi số lượng vi khuẩn cần để sinh bệnh là rất ít (dưới 10 vi khuẩn).

Người tiếp xúc gần, thường xuyên, thời gian dài với người bị lao có nguy cơ nhiễm bệnh rất cao với tỷ lệ lây nhiễm ước tính 22%. Một người mắc lao hoạt tính không chữa trị có thể lây cho 10 đến 15 người (hoặc hơn) trong một năm.

Chuỗi lây truyền người sang người có thể ngăn chặn bằng biện pháp cách ly người bệnh lao hoạt tính và điều trị bằng thuốc kháng lao. Sau khoảng hai tuần điều trị hiệu quả thì nhìn chung đối tượng mang vi khuẩn không kháng thuốc sẽ không thể lây bệnh cho người khác.

Yếu tố làm tăng nguy cơ

Bệnh hoạt tính

Yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng mắc bệnh lao hàng đầu trên toàn cầu là HIV, 13% bệnh nhân lao nhiễm HIV. Vấn đề này nghiêm trọng ở châu Phi hạ Sahara nơi có tỷ lệ nhiễm HIV cao. 30% người đồng nhiễm lao và HIV bệnh phát triển thành thể hoạt tính, tiểu đường (nguy cơ tăng gấp ba), bụi phổi silic (nguy cơ tăng gấp 30 lần), ô nhiễm không khí trong nhà, suy dinh dưỡng, nhỏ tuổi, mới mắc lao gần đây, sử dụng ma túy, bệnh thận nặng, nhẹ cân, cấy ghép nội tạng, ung thư đầu cổ, và nhạy cảm gen.

Nhiễm khuẩn

Nguy cơ nhiễm khuẩn lao gia tăng ở những người hút thuốc lá và trẻ em. và khả năng bệnh tiến triển đến dạng hoạt tính chỉ là 10% trong suốt cuộc đời. Ở người nhiễm HIV nguy cơ xuất hiện lao hoạt tính tăng gần 10% một năm.

Nhiễm khuẩn lao bắt đầu khi vi khuẩn đến túi khí phế nang của phổi, tại đó chúng xâm nhập và sinh sôi trong thể nội bào của đại thực bào phế nang. Đại thực bào xác định vi khuẩn là ngoại xâm và cố gắng tiêu diệt chúng thông qua sự thực bào. Trong quá trình này, vi khuẩn bị đại thực bào bao bọc và nhốt tạm thời trong một túi có màng bao gọi là thể thực bào. Tiếp đó thể thực bào kết hợp với tiêu thể tạo ra thực bào-tiêu thể (hay nội tiêu thể). Trong nội tiêu thể, tế bào nỗ lực sử dụng những dạng oxy phản ứng và acid để giết vi khuẩn. Tuy nhiên, M. tuberculosis có một bao mycolic acid dày, sáp bảo vệ nó khỏi những độc chất mà tế bào sản sinh. M. tuberculosis có thể sinh sôi bên trong đại thực bào và cuối cùng tiêu diệt đại thực bào.

Vị trí nhiễm khuẩn đầu tiên ở phổi gọi là tụ điểm Ghon nhìn chung nằm ở phần trên của thùy dưới hoặc phần dưới của thùy trên. Thông qua đường máu vi khuẩn còn có thể lan đến những địa điểm xa hơn như hạch ngoại vi, thận, não, và xương. Căn bệnh có thể tác động đến mọi bộ phận của cơ thể, dù vậy nó hiếm khi ảnh hưởng đến tim, cơ xương, tụy, hay giáp.

thumb|left|upright=0.7|Tranh minh họa các nốt lao (màu trắng) của [[Robert Carswell]]

Lao được xếp vào nhóm các bệnh viêm u hạt. Đại thực bào, tế bào dạng biểu mô, tế bào T, tế bào B, và nguyên bào sợi tập hợp hình thành nên u hạt với bạch huyết bào bao quanh đại thực bào bị nhiễm. Khi những đại thực bào khác tấn công đại thực bào bị nhiễm, chúng hợp nhất thành một tế bào đa nhân khổng lồ trong khoang phế nang. U hạt có thể ngăn vi khuẩn phát tán và tạo môi trường cục bộ cho các tế bào của hệ miễn dịch tương tác. Vi khuẩn bên trong u hạt có thể trở nên bất hoạt dẫn đến nhiễm khuẩn tiềm ẩn. Một đặc điểm khác của u hạt là hoại tử phát triển ở tâm của nốt lao. Nhìn bằng mắt thường nó trông như phô mai trắng mềm và được gọi là hoại tử phô mai.

Nếu vi khuẩn lao xâm nhập dòng máu từ một vùng mô bị nhiễm khuẩn thì chúng có thể lan ra khắp cơ thể và tạo ra nhiều tụ điểm nhiễm khuẩn có dạng nốt trắng nhỏ ở mô. Dạng lao nghiêm trọng này được gọi là lao kê phổ biến nhất ở trẻ em và người nhiễm HIV. Tỷ lệ tử vong đối với lao dạng lan tỏa này là cao kể cả có chữa trị (khoảng 30%).

Ở nhiều người, tình trạng nhiễm khuẩn lúc nặng lên lúc thuyên giảm. Hoại tử và sự hủy hoại mô thường được cân bằng bởi chữa lành và xơ hóa. Ở trẻ em, vắc xin này làm giảm 20% nguy cơ nhiễm bệnh và gần 60% nguy cơ lao tiềm ẩn tiến triển thành lao hoạt tính.

BCG là vắc-xin được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới; 90% tất cả trẻ em đã được tiêm vắc-xin này. Một trong những lý do cho việc hạn chế sử dụng vắc-xin này là nó khiến xét nghiệm Mantoux cho kết quả dương tính giả và làm giảm tác dụng của xét nghiệm này trong việc tầm soát lao.

Y tế công cộng

Trong thế kỷ 19, các chiến dịch y tế công cộng tập trung vào việc giảm thiểu tụ tập đông người và khạc nhổ nơi công cộng cũng như khuyến khích vệ sinh cá nhân thường xuyên (trong đó có rửa tay) đã được triển khai và giúp làm giảm đáng kể sự lây lan của lao nói riêng và các bệnh lây truyền qua không khí nói chung. Nhờ đó, lao đã không còn là một vấn đề y tế công cộng lớn ở hầu hết các nền kinh tế phát triển vào cuối thế kỷ 20. Tuy nhiên, đến năm 2015, kế hoạch này đã không đạt được một số mục tiêu đặt ra, chủ yếu do sự gia tăng các ca lao liên quan đến HIV và sự xuất hiện của chủng lao kháng nhiều loại thuốc.

Chưa rõ việc sử dụng thuốc trị lao ở người mắc lao kháng nhiều loại thuốc mang lại lợi ích cũng như nguy cơ gì. Việc cung cấp liệu pháp HAART cho bệnh nhân lao dương tính với HIV làm giảm đáng kể (tới 90%) nguy cơ lao tiềm ẩn tiến triển thành lao hoạt tính cũng như hạn chế bệnh phát tán trong cộng đồng những người mang HIV.

Điều trị

thumb|Điều trị lao vào ngày 3 tháng 3 năm 1934 ở [[Kuopio, Phần Lan]] Lao được điều trị bằng cách sử dụng kháng sinh để tiêu diệt vi khuẩn. Việc điều trị lao thường khó hiệu quả bởi cấu trúc và thành phần hóa học bất thường của vách tế bào vi khuẩn gây lao khiến thuốc khó xâm nhập và làm cho nhiều loại kháng sinh không có hiệu quả.

Bệnh lao hoạt tính được điều trị bằng cách sử dụng kết hợp một số loại kháng sinh nhằm giảm nguy cơ vi khuẩn gây bệnh trở nên kháng thuốc.

Lao tiềm ẩn

Lao tiềm ẩn được điều trị bằng một trong hai loại thuốc isoniazid và rifampin, hoặc kết hợp isoniazid với một trong hai loại thuốc rifampicin và rifapentine.

Phác đồ điều trị có thể kéo dài từ 3 đến 9 tháng tùy theo loại thuốc được chỉ định. Việc điều trị lao tiềm ẩn có mục đích ngăn bệnh không tiến triển thành lao hoạt tính trong tương lai.

Giáo dục nhận thức hoặc tư vấn tâm lý có thể cải thiện tỷ lệ hoàn thành việc điều trị lao tiềm ẩn.

Lao hoạt tính vừa khởi phát

Phác đồ điều trị đối với bệnh lao hoạt tính vừa khởi phát, , kéo dài 6 tháng, trong đó bệnh nhân sử dụng kết hợp thuốc kháng sinh chứa rifampicin, isoniazid, pyrazinamide và ethambutol trong 2 tháng đầu tiên, và chỉ sử dụng rifampicin và isoniazid trong 4 tháng còn lại. Cũng không có bằng chứng nào cho thấy phác đồ điều trị ngắn có hiệu quả hơn phác đồ điều trị 6 tháng.

Lao tái phát

Nếu bệnh tái phát, cần xét nghiệm để xác định vi khuẩn lao nhạy cảm với loại kháng sinh nào trước khi quyết định cách điều trị. Khả năng kháng thuốc của vi khuẩn lao là một vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng ở nhiều quốc gia đang phát triển, bởi bệnh nhân kháng thuốc cần được điều trị lâu hơn và dùng các loại thuốc đắt tiền hơn. Nếu người bệnh mắc loại vi khuẩn lao kháng hai loại thuốc điều trị được ưu tiên sử dụng hàng đầu là rifampicin và isoniazid, họ được xem là mắc lao kháng nhiều loại thuốc hay MDR-TB. Nếu người bệnh cũng kháng từ ba trong sáu loại thuốc được ưu tiên điều trị thứ hai trở lên thì được xem là mắc lao kháng thuốc diện rộng (tiếng Anh: extensively resistant tuberculosis, hay XDR-TB). Trường hợp đầu tiên kháng tất cả các loại thuốc đang được sử dụng được ghi nhận vào năm 2003 ở Ý, nhưng đến năm 2012 mới được công bố rộng rãi. Các trường hợp khác cũng đã được ghi nhận ở Iran và Ấn Độ. Bedaquiline đã bước đầu cho thấy hiệu quả trong việc điều trị lao kháng nhiều loại thuốc.

Cứ 10 ca MDR-TB thì có một ca XDR-TB. Các ca XDR-TB đã được ghi nhận ở hơn 90% tất cả các quốc gia trên thế giới. Việc sử dụng linezolid để điều trị XDR-TB có thể mang lại hiệu quả nhất định nhưng thường gây ra tác dụng phụ và khi đó người bệnh thường phải ngưng dùng thuốc.

Tiên lượng

Lao tiềm ẩn tiến triển thành lao hoạt tính khi vi khuẩn lao vượt qua được hàng rào bảo vệ của hệ miễn dịch và bắt đầu sinh sôi. Điều này xảy ra không lâu sau khi người bệnh nhiễm vi khuẩn đối với các ca lao sơ cấp (chiếm từ 1–5% tổng số ca bệnh lao). Theo một số ước tính, ở các khu vực mà lao là một bệnh phổ biến, điều này có thể chiếm hơn 50% số ca lao tái phát. Nguy cơ tử vong do lao rơi vào khoảng 4% , so với con số 8% vào năm 1995.

Lịch sử

thumb|Bức tranh La Miseria của [[Cristóbal Rojas (1886). Rojas cũng đang mắc bệnh lao khi vẽ bức tranh này. Bức tranh thể hiện tác động của bệnh lao lên người bệnh và gia đình họ trong bối cảnh thế kỷ 19.]]

Trong suốt lịch sử, bệnh lao đã được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như "bệnh phthisis" và "bệnh dịch hạch trắng". Người ta thường chấp nhận rằng tác nhân gây bệnh, vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis có nguồn gốc từ các vi khuẩn nguyên thủy khác thuộc cùng một chi Mycobacterium. Năm 2014, kết quả của một nghiên cứu DNA mới về bộ gen bệnh lao được tái tạo lại từ hài cốt ở miền nam Peru cho thấy rằng bệnh lao xuất hiện ở người dưới 6.000 năm trước. Ngay cả khi các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng con người mắc bệnh này lần đầu tiên ở châu Phi khoảng 5.000 năm trước, Nó lây lan sang người khác dọc theo các con đường thương mại. Nó cũng lây lan sang các động vật được thuần hóa ở châu Phi, chẳng hạn như dê và bò. Hải cẩu và sư tử biển sinh sản trên các bãi biển châu Phi được cho là đã mắc bệnh và mang nó qua Đại Tây Dương đến Nam Mỹ. Những người thợ săn hải cẩu sẽ là những người đầu tiên mắc bệnh ở đó.

Xương người từ thời đồ đá mới cho thấy sự hiện diện của vi khuẩn. Cũng đã có tuyên bố về các bằng chứng cho thấy tổn thương đặc trưng của bệnh lao trong hóa thạch của người Homo erectus cách đây 500.000 năm, mặc dù phát hiện này còn gây tranh cãi.

Kết quả của một nghiên cứu về gen được báo cáo vào năm 2014 cho thấy rằng bệnh lao xuất hiện gần đây hơn những gì người ta nghĩ trước đây. Các nhà khoa học đã có thể tái tạo bộ gen của vi khuẩn từ hài cốt của những bộ xương 1.000 năm tuổi ở miền nam Peru. Khi xác định niên đại của DNA, họ phát hiện ra nó chưa đầy 6.000 năm tuổi. Họ cũng phát hiện ra nó có liên quan gần nhất với một chủng vi khuẩn lao ở hải cẩu và đã đưa ra giả thuyết rằng những con vật này là phương thức truyền bệnh từ Châu Phi sang Nam Mỹ. Tuy nhiên, kết quả này bị chỉ trích bởi các chuyên gia khác trong lĩnh vực này, consumptio (Latin), yaksma (Ấn Độ), và chaky oncay (Inca), mỗi cái tên đều ám chỉ đến triệu chứng suy kiệt dần dần do căn bệnh.

Vào thế kỷ 19, tỷ lệ tử vong cao của bệnh lao ở thanh niên và trung niên cùng với sự gia tăng của Chủ nghĩa lãng mạn, vốn làm căng thẳng cảm xúc hơn lý trí, khiến nhiều người gọi căn bệnh này là "bệnh lãng mạn".

Bệnh lao trong các nền văn minh sơ khai

Năm 2008, bằng chứng về sự lây nhiễm bệnh lao đã được phát hiện trong hài cốt người từ thời kỳ đồ đá mới có niên đại từ 9.000 năm trước, ở Atlit Yam, một khu định cư ở phía đông Địa Trung Hải. Phát hiện này đã được xác nhận bằng các phương pháp hình thái học và phân tử; cho đến nay nó là bằng chứng lâu đời nhất về sự lây nhiễm bệnh lao ở người.

Bằng chứng về sự lây nhiễm ở người cũng được tìm thấy trong một nghĩa trang gần Heidelberg, trong một bộ xương thời đồ đá mới cho thấy bằng chứng về kiểu đau thắt lưng thường thấy gắn với bệnh lao cột sống. Một số tác giả gọi bệnh lao là căn bệnh đầu tiên được nhân loại biết đến.

Dấu hiệu của căn bệnh này cũng đã được tìm thấy trong các xác ướp Ai Cập có niên đại từ năm 3.000 đến 2.400 trước Công nguyên. Trường hợp thuyết phục nhất được tìm thấy trong xác ướp của linh mục Nesperehen, được Grebart phát hiện năm 1881, trong đó có bằng chứng về bệnh lao cột sống với các ổ áp xe đặc trưng Các đặc điểm tương tự cũng được phát hiện trên các xác ướp khác như của linh mục Philoc và khắp các nghĩa trang của Thebes. Có vẻ như vua Akhenaten và vợ là Nefertiti đều chết vì bệnh lao, và bằng chứng chỉ ra rằng các bệnh viện điều trị bệnh lao đã tồn tại ở Ai Cập từ năm 1500 trước Công nguyên

Trong Giấy cói Ebers, một chuyên luận y học quan trọng của Ai Cập từ khoảng năm 1550 trước Công nguyên, mô tả sự tổn thương ở phổi. Khuyến cáo rằng nó cần được điều trị bằng cách phẫu thuật và áp dụng một hỗn hợp của cây keo, đậu Hà Lan, trái cây, máu động vật, máu côn trùng, mật ong và muối.

Kinh Thánh Cựu Ước đề cập đến một căn bệnh gây suy kiệt sẽ ảnh hưởng đến người Do Thái nếu họ đi lạc khỏi Đức Chúa Trời. Nó được liệt kê trong phần những lời nguyền rủa được đưa ra trước khi họ vào đất Ca-na-an.

Phương đông

Ấn Độ cổ đại

Các tài liệu tham khảo đầu tiên về bệnh lao trong các nền văn minh ngoài châu Âu được tìm thấy trong kinh Veda. Sách cổ nhất trong số đó (Rigveda, khoảng 1500 TCN) gọi đây là bệnh yaksma. Atharvaveda gọi nó là balasa. Trong Atharvaveda, mô tả đầu tiên về scrofula được đưa ra. The Sushruta Samhita, được viết vào khoảng năm 600 trước Công nguyên, khuyến cáo rằng bệnh cần được điều trị bằng sữa mẹ, các loại thịt khác nhau, rượu và nghỉ ngơi. Yajurveda khuyên rằng những người bị bệnh nên di chuyển lên độ cao lớn hơn. Nó được mô tả là thuốc không mang lại hiệu quả chữa trị; châm cứu cũng không thể chữa khỏi [bệnh]

"Sổ tay kê đơn cho trường hợp khẩn cấp", của học giả Đạo giáo Ge Hong (263–420), sử dụng cái tên shizhu 尸疰, tức là "bệnh xác chết; bệnh lao" và mô tả các triệu chứng và sự lây lan: "Bệnh này có nhiều triệu chứng thay đổi khác nhau, từ ba mươi sáu đến chín mươi chín loại khác nhau. Nói chung là phát sốt cao, vã mồ hôi, suy nhược, đau vùng da bao quy đầu, làm mọi vị trí đều ốm yếu. Dần dần, sau nhiều tháng mắc phải, căn bệnh mang lại cái chết cho người mắc phải và sau đó nó lây sang người khác cho đến khi cả gia đình bị xóa sổ."

Thời nhà Tống (920–1279), các tu sĩ kiêm bác sĩ Đạo giáo lần đầu tiên ghi lại rằng bệnh lao, được gọi là shīzhài 尸瘵 ("bệnh xác chết") "bệnh biến một sinh vật thành xác chết", là do lây nhiễm một loại ký sinh trùng cụ thể hoặc mầm bệnh, sớm hơn nhiều thế kỷ so với các đồng nghiệp cùng thời của họ ở các nước khác.

Ngoài ra, những bác sĩ Đạo giáo sẽ đốt những lá bùa để "tẩy trùng" quần áo và đồ đạc của người đã chết vì bệnh lao, và sẽ cảnh báo gia đình nạn nhân bệnh lao rằng hãy vứt bỏ mọi thứ đồ dùng bởi lý do phong thủy. Theo Liu Ts'un-yan, "Điều này chứng tỏ rằng các tu sĩ thời đó thực sự muốn phá hủy tất cả đồ đạc của người đã khuất (để ngăn chặn sự lây nhiễm cho người khác), họ sử dụng bùa chú như một thứ ngụy trang."

Thời cổ đại

thumb|Hippocrates.

Hippocrates, trong Quyển 1 của bộ sách "Bệnh dịch", mô tả các đặc điểm của bệnh: sốt, nước tiểu không màu, ho dẫn đến nước dãi, mất cảm giác khát và thèm ăn. Ông lưu ý rằng hầu hết những người mắc phải đều trở nên mê sảng trước khi họ chết do căn bệnh này. Hippocrates và nhiều người khác vào thời điểm đó tin rằng "bệnh phthisis" là do di truyền một cách tự nhiên. Aristotle không đồng ý, ông tin rằng căn bệnh này có thể lây lan.

Pliny Trẻ đã viết một bức thư cho Priscus, trong đó anh kể chi tiết các triệu chứng của bệnh phthisis khi anh nhìn thấy chúng ở Fannia:

Galen đã đề xuất một loạt các phương pháp điều trị căn bệnh này, bao gồm: thuốc phiện làm thuốc ngủ và thuốc giảm đau; trích máu; chế độ ăn kiêng với nước lúa mạch, cá và trái cây. Ông cũng mô tả phyma (khối u) của phổi, được cho là tương ứng với các nốt lao hình thành trên phổi do hậu quả của căn bệnh này.

Vitruvius lưu ý triệu chứng "lạnh trong khí quản, ho, sưng tấy, ho, khạc đờm, [và] khạc ra máu", và đây là những căn bệnh phổ biến ở những vùng có gió thổi từ bắc sang tây bắc, và khuyên rằng nên xây tường để che chắn cho các cá nhân khỏi gió

Aretaeus là người đầu tiên mô tả một cách chặt chẽ các triệu chứng của căn bệnh này trong văn bản của mình De causis et signis diuturnorum morborum:

Trong cuốn sách khác của mình "De curatione diuturnorum morborum", ông khuyến cáo những người mắc bệnh phải đi du lịch ở độ cao lớn, đi du lịch bằng đường biển, ăn uống đầy đủ và uống nhiều sữa.

Châu Mỹ tiền Colombus

Tại Nam Mỹ, một nghiên cứu vào tháng 8 năm 2014 cho thấy rằng bệnh lao có khả năng lây lan qua những con hải cẩu đã mắc bệnh trên các bãi biển của châu Phi (lây từ người hoặc động vật thuần hóa) rồi mang nó qua Đại Tây Dương. Một nhóm nghiên cứu tại Đại học Tübingen đã phân tích DNA của vi khuẩn lao trong các bộ xương 1.000 năm tuổi của nền văn hóa Chiribaya ở miền nam Peru; rất nhiều vật chất di truyền đã được phục hồi để họ có thể tái tạo lại bộ gen. Họ biết được rằng chủng lao này có quan hệ gần nhất với một dạng chỉ có ở hải cẩu. Ở Nam Mỹ, những người có khả năng bị nhiễm bệnh đầu tiên là những thợ săn xử lý thịt bị nhiễm vi khuẩn. Chủng lao này là một chủng khác với chủng phổ biến ngày nay ở Châu Mỹ, có liên quan chặt chẽ hơn với chủng Âu-Á sau này.

Trước nghiên cứu này, bằng chứng đầu tiên về căn bệnh này ở Nam Mỹ đã được tìm thấy trong những di tích của nền văn hóa Arawak vào khoảng năm 1050 trước Công nguyên. Phát hiện quan trọng nhất thuộc về xác ướp của một đứa trẻ Nascan từ 8 đến 10 tuổi ở Hacienda Agua Sala, có niên đại năm 700 sau Công nguyên. Các nhà khoa học đã có thể phân lập bằng chứng về loại vi khuẩn này.

Gia ân hoàng gia

thumb|[[Henry IV của Pháp chạm vào nhiều cá nhân ốm yếu trong một buổi lễ "Gia ân hoàng gia".]]

Thời trung cổ, các vị vua được coi là những nhân vật tôn giáo có sức mạnh ma thuật hoặc chữa bệnh. Người ta tin rằng khi chạm vào vị vua của Anh hoặc Pháp, có thể chữa khỏi bệnh do "sự thiêng liêng của nền quân chủ". Vua Henry IV của Pháp thường cử hành nghi thức mỗi tuần một lần, sau khi rước lễ. Thực hành chữa bệnh hoàng gia này rất phổ biến ở Pháp, đến nỗi bệnh lao được gọi là "mal du roi" hoặc "Ác ma của nhà vua".

Đến thời Louis XIV của Pháp, những tấm bảng chỉ dẫn ngày và giờ mà Nhà vua sẽ có mặt để tiếp xúc với người dân đã được đăng thường xuyên; một số tiền đã được trích ra làm hỗ trợ từ thiện. Ở Anh, quy trình này cực kỳ chính thức và hiệu quả. Cuối năm 1633, Sách Cầu nguyện chung của Nhà thờ Anh giáo có ghi cách tổ chức một buổi lễ Cảm ứng Hoàng gia. Quốc vương (vua hoặc hoàng hậu), ngồi trên ngai vàng được trang hoàng, chạm vào người bệnh đau khổ và trao cho người đó một đồng xu - thường là một "đồng xu Thiên thần", một đồng tiền vàng có giá trị thay đổi từ khoảng 6 shilling đến khoảng 10 shilling - bằng cách ấn nó vào cổ người bệnh. Buổi lễ này vẫn phổ biến cho đến thế kỷ 18. Sổ đăng ký của giáo xứ từ Oxfordshire, Anh quốc không chỉ bao gồm hồ sơ về các cuộc rửa tội, hôn nhân và cái chết, mà còn cả hồ sơ của những người đủ điều kiện để được tiếp xúc với hoàng gia.

Paracelsus thì lại tin rằng bệnh lao là sự rối loạn do một cơ quan nội tạng không thể hoàn thành chức năng của nó. Khi điều này xảy ra trong phổi, kết tủa dạng rắn sẽ phát triển gây ra bệnh lao mà ông gọi là "quá trình tartaric".

Thế kỷ 17 và 18

Tỷ lệ mắc bệnh lao tăng dần trong thời Trung cổ và Phục hưng, trở nên phổ biến hơn bệnh phong, đạt đỉnh điểm giữa thế kỷ 18 và 19 khi những người nông dân chuyển đến các thành phố để tìm việc làm. Trong số 1.571 trường hợp tử vong ở thành phố Bristol của Anh từ năm 1790 đến 1796, có 683 người là do bệnh lao. Các thị trấn hẻo lánh, ban đầu bị cô lập khỏi dịch bệnh, dần dần bị lây nhiễm. Những cái chết do lao ở làng Holycross ở Shropshire giữa năm 1750 và 1759 chiếm 1/6 số người chết; mười năm sau là 1/3. Ở thủ đô London, tỷ lệ 1/7 chết vì bệnh lao vào đầu thế kỷ 18, đến năm 1750, tỷ lệ đó tăng lên 1/5,25 và tăng lên 1/4,2 vào khoảng đầu thế kỷ 19. Cuộc Cách mạng Công nghiệp khiến mật độ dân số tại các thành phố tăng lên, cùng với nghèo đói và bệnh tật đã tạo ra môi trường tối ưu cho sự lây lan của căn bệnh này.

Thế kỷ 19

Dịch bệnh lao

Vào thế kỷ 18 và 19, bệnh lao (TB) đã trở thành dịch bệnh ở châu Âu, xuất hiện theo mùa.

Vào thế kỷ 19, bệnh lao đã giết chết khoảng một phần tư dân số trưởng thành của châu Âu. Ở Tây Âu lục địa, dịch lao có thể đã đạt đến đỉnh điểm vào nửa đầu thế kỷ 19. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong bắt đầu giảm vào cuối thế kỷ 19 trên khắp châu Âu và Hoa Kỳ. Ngoài ra, TB còn được nhiều người gọi là "Đội trưởng của Tất cả những kẻ chết chóc".

Căn bệnh lãng mạn

left|thumb|Nhà văn Nga [[Anton Chekhov, người chết vì bệnh lao năm 1904]]

Trong thế kỷ này, bệnh lao được mệnh danh là Bệnh dịch trắng, mal de vivre, và mal du siècle. Nó được xem là một "căn bệnh lãng mạn". Mắc bệnh lao được cho là nguyên nhân khiến người mắc phải tăng thêm độ nhạy cảm. Sự tiến triển chậm của căn bệnh cho phép một "cái chết an lành" vì những người mắc bệnh có thể sắp xếp công việc của họ Căn bệnh này bắt đầu đại diện cho sự thuần khiết về mặt tinh thần và sự giàu có về mặt vật chất, khiến nhiều phụ nữ trẻ, thuộc tầng lớp thượng lưu có chủ đích làm tái xanh làn da của họ để đạt được vẻ ngoài mong manh. Nhà thơ người Anh Lord Byron đã viết, "Tôi nên chết vì lao", giúp phổ biến căn bệnh được coi là bệnh của các nghệ sĩ. George Sand nói về người tình của cô, nhạc sĩ Frédéric Chopin, là "thiên thần sầu muộn tội nghiệp".

Ở các thành phố lớn, tỷ lệ người nghèo mắc bệnh lao là rất cao do điều kiện sống chật chội, thiếu vệ sinh và suy dinh dưỡng ở tầng lớp này. Các bác sĩ y tế công cộng và các chính trị gia thường đổ lỗi cho cả bản thân người nghèo và những ngôi nhà tập thể xiêu vẹo của họ là nguyên nhân lây lan căn bệnh đáng sợ. Mọi người phớt lờ các chiến dịch y tế công cộng để hạn chế sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm, chẳng hạn như cấm khạc nhổ trên đường phố, các hướng dẫn nghiêm ngặt về chăm sóc trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, và việc cách ly gia đình khỏi những người thân bị bệnh.

Tiến bộ khoa học

Mặc dù bị loại bỏ khỏi phong trào văn hóa, sự hiểu biết khoa học vẫn tiến bộ đáng kể. Vào cuối thế kỷ 19, một số đột phá lớn đã mang lại hy vọng rằng có thể tìm ra nguyên nhân và cách chữa trị bệnh lao.

Một trong những bác sĩ quan trọng nhất trong việc nghiên cứu bệnh lao là René Laennec, người đã chết vì căn bệnh này ở tuổi 45, sau khi mắc bệnh lao trong khi nghiên cứu bệnh nhân và cơ thể bị nhiễm bệnh. Laennec đã phát minh ra ống nghe mà ông sử dụng để chứng thực kết quả nghe tim của mình và chứng minh sự tương ứng giữa các tổn thương được tìm thấy trên phổi của bệnh nhân lao được khám nghiệm tử thi và các triệu chứng hô hấp ở bệnh nhân còn sống. Công trình quan trọng nhất của ông là Traité de l'Auscultation Médiate trình bày chi tiết những khám phá của ông về công dụng của nghe tim phổi trong chẩn đoán bệnh lao. Cuốn sách này đã nhanh chóng được dịch sang tiếng Anh bởi John Forbes năm 1821; nó đại diện cho sự khởi đầu của sự hiểu biết khoa học hiện đại về bệnh lao.

Công việc của Laennec đã đưa ông tiếp xúc với các nhà tiên phong của những cơ sở y tế Pháp, bao gồm cả Pierre Charles Alexandre Louis. Louis sẽ tiếp tục sử dụng các phương pháp thống kê để đánh giá các khía cạnh khác nhau của sự tiến triển của bệnh, hiệu quả của các liệu pháp khác nhau và tính nhạy cảm của từng cá nhân, sau đó ông xuất bản một bài báo trên Annales d'hygiène publique có tựa đề "Lưu ý về tần suất tương đối của bệnh Phthisis ở hai giới tính ". Một người bạn tốt và đồng nghiệp khác của Laennec, Gaspard Laurent Bayle, đã xuất bản một bài báo vào năm 1810 với tựa đề "Recherches sur la Pthisie Pulmonaire", trong đó ông chia bệnh pthisis thành sáu loại. Ông xây dựng những phát hiện của mình dựa trên hơn 900 cuộc khám nghiệm tử thi.

Năm 1869, Jean Antoine Villemin đã chứng minh rằng căn bệnh này thực sự có thể lây lan, ông tiến hành một thí nghiệm trong đó chất dịch từ xác người được tiêm vào thỏ thí nghiệm, sau đó chúng bị nhiễm bệnh.

Vào ngày 24 tháng 3 năm 1882, Robert Koch công bố căn bệnh này là do một tác nhân truyền nhiễm gây ra. và mặc dù một phương pháp điều trị y tế hiệu quả sẽ không được tìm ra trong 50 năm nữa, tỷ lệ mắc và tử vong của bệnh lao bắt đầu suy giảm.

Robert Koch tìm ra vi khuẩn lao

thumb|right|[[Robert Koch, nhà sinh học, bác sĩ người Phổ đã tìm ra vi khuẩn lao]] Các thí nghiệm của Villemin đã xác nhận tính chất lây lan của căn bệnh này và buộc cộng đồng y tế phải chấp nhận rằng bệnh lao thực sự là một bệnh truyền nhiễm, lây truyền bởi một số tác nhân gây bệnh không rõ nguồn gốc. Năm 1882, bác sĩ người Phổ Robert Koch sử dụng một phương pháp nhuộm mới và áp dụng nó vào đờm của bệnh nhân lao, lần đầu tiên phát hiện ra tác nhân gây bệnh: Mycobacterium tuberculosis, hay trực khuẩn Koch.

Khi bắt đầu cuộc điều tra, Koch đã biết về công việc của Villemin và những người khác đã tiếp tục các thí nghiệm của mình như Julius Conheim và Carl Salmosen. Ông cũng được tiếp cận với "khu pthisis" tại Bệnh viện Charité Berlin. Trước khi đối mặt với vấn đề bệnh lao, ông đã làm việc với bệnh than và đã phát hiện ra tác nhân gây bệnh là vi khuẩn Bacillus anthracis. Trong cuộc điều tra này, ông kết thân với Ferdinand Cohn, giám đốc Viện Sinh lý Rau quả. Họ cùng nhau làm việc để phát triển các phương pháp nuôi cấy mẫu mô. Ngày 18 tháng 8 năm 1881, trong khi nhuộm mẫu bệnh phẩm lao bằng xanh methylen, ông nhận thấy các cấu trúc thuôn dài, mặc dù ông không thể chắc chắn liệu đó có phải chỉ là kết quả của việc tô màu hay không. Để cải thiện độ tương phản, ông quyết định thêm màu nâu Bismarck, sau đó các cấu trúc thuôn dài được trả lại sáng và trong suốt. Ông đã cải tiến kỹ thuật bằng cách thay đổi nồng độ kiềm trong dung dịch nhuộm cho đến khi đạt được điều kiện quan sát lý tưởng đối với trực khuẩn.

Sau nhiều nỗ lực, ông đã có thể ủ vi khuẩn trong huyết thanh đông tụ ở 37 độ C. Sau đó, ông cấy vi khuẩn vào những con thỏ trong phòng thí nghiệm và quan sát thấy chúng chết khi có các triệu chứng của bệnh lao, chứng minh rằng loại trực khuẩn mà ông đặt tên là trực khuẩn lao, chính là nguyên nhân gây ra bệnh lao.

Ông đã công bố kết quả của mình tại Hiệp hội Sinh lý học Berlin vào ngày 24 tháng 3 năm 1882, trong một bài giảng nổi tiếng mang tên Über Tuberculose, được xuất bản ba tuần sau đó. Kể từ năm 1882, ngày 24 tháng 3 được gọi là Ngày Thế giới phòng chống lao

Vào ngày 20 tháng 4 năm 1882, Koch trình bày một bài báo có tựa đề Die Ätiologie der Tuberculose, trong đó ông chứng minh rằng Mycobacterium là nguyên nhân đơn lẻ gây ra bệnh lao ở tất cả các dạng của nó. Nó được chứng minh là một phương tiện tiêm chủng không hiệu quả nhưng vào năm 1908, Charles Mantoux tìm ra một xét nghiệm máu hiệu quả để chẩn đoán bệnh lao.

Phong trào điều dưỡng

thumb|Bản đồ điều tra dân số năm 1950 của Aibonito, Puerto Rico, Hoa Kỳ, cho biết "Viện điều dưỡng bệnh lao" là một khu vực điều tra (Điều tra dân số) đặc biệt Sự tiến bộ của hiểu biết khoa học về bệnh lao, và tính chất lây lan của nó đã tạo ra nhu cầu về các cơ sở trị liệu cho những người mắc bệnh.

Hermann Brehmer, một bác sĩ người Đức, tin rằng bệnh lao phát sinh từ sự khó khăn của tim trong việc cung cấp máu cho phổi một cách chính xác. Do đó, ông đề xuất rằng tại những vùng cao hơn mực nước biển, nơi áp suất khí quyển thấp hơn, sẽ giúp tim hoạt động hiệu quả hơn. Với sự khuyến khích của nhà thám hiểm Alexander von Humboldt và giáo viên của ông là JL Schönlein, viện điều dưỡng chống bệnh lao đầu tiên được thành lập vào năm 1854, ở độ cao 650 mét so với mực nước biển, tại Görbersdorf. Ba năm sau, ông công bố những phát hiện của mình trên một bài báo Die chronische Lungenschwindsucht und Tuberkulose der Lunge: Ihre Ursache und ihre Heilung.

Brehmer và một trong những bệnh nhân của ông, Peter Dettweiler, đã trở thành những người đề xướng phong trào điều dưỡng, và đến năm 1877, các viện điều dưỡng bắt đầu lan rộng ra ngoài nước Đức và khắp châu Âu. Tiến sĩ Edward Livingston Trudeau sau đó đã thành lập "Adirondack Cottage Sanitorium" ở Saranac Lake, New York vào năm 1884. Một trong những bệnh nhân đầu tiên của Trudeau là tác giả Robert Louis Stevenson; danh tiếng của ông đã giúp thành lập Saranac Lake như một trung tâm điều trị bệnh lao. Năm 1894, sau khi một trận hỏa hoạn thiêu rụi phòng thí nghiệm nhỏ tại nhà của Trudeau, ông đã tổ chức Phòng thí nghiệm Saranac để nghiên cứu về bệnh Lao; đổi tên thành Viện Trudeau, phòng thí nghiệm tiếp tục nghiên cứu các bệnh truyền nhiễm.

Peter Dettweiler tiếp tục thành lập viện điều dưỡng của riêng mình tại Falkenstein vào năm 1877 và vào năm 1886, ông tuyên bố rằng 132 trong số 1022 bệnh nhân của ông đã được chữa khỏi hoàn toàn sau khi ở viện của ông. Cuối cùng, các viện điều dưỡng bắt đầu xuất hiện gần các thành phố lớn và ở độ cao thấp, như Viện điều dưỡng Sharon vào năm 1890 gần Boston.

Viện điều dưỡng không phải là cơ sở điều trị duy nhất. Các phòng khám chuyên khoa lao bắt đầu phát triển ở các khu vực đô thị lớn. Ngài Robert Philip đã thành lập Trạm điều dưỡng Hoàng gia Victoria ở Edinburgh vào năm 1887. Các trạm y tế đóng vai trò như những viện điều dưỡng đặc biệt dành cho những trường hợp mắc bệnh lao sớm và được mở cho những người có thu nhập thấp. Việc sử dụng các trạm y tế để điều trị cho những người thuộc tầng lớp trung lưu và hạ lưu ở các khu vực đô thị lớn và sự phối hợp giữa các cấp độ khác nhau của các chương trình dịch vụ y tế như bệnh viện, viện điều dưỡng và các khu bệnh lao được gọi là "Chương trình chống lao Edinburgh".

Thế kỷ 20

Việc ngăn chặn

thumb|Bản đồ số ca tử vong do bệnh lao ở Washington, DC năm 1900–1901. Vào đầu thế kỷ 20, bệnh lao là một trong những vấn đề sức khỏe cấp bách nhất của Vương quốc Anh. Một ủy ban hoàng gia được thành lập vào năm 1901, Ủy ban Hoàng gia được bổ nhiệm để điều tra các mối quan hệ của bệnh lao ở người và động vật. Nhiệm vụ của nó là tìm hiểu xem liệu bệnh lao ở động vật và người có phải là cùng một bệnh hay không, và liệu động vật và con người có thể lây nhiễm cho nhau hay không. Đến năm 1919, Ủy ban đã phát triển thành Hội đồng Nghiên cứu Y khoa của Vương quốc Anh.

Năm 1902, Hội nghị quốc tế về bệnh lao được triệu tập tại Berlin. Trong số các hoạt động khác, hội nghị đã đề xuất Thánh giá Lorraine là biểu tượng quốc tế của cuộc chiến chống lại bệnh lao. Các chiến dịch quốc gia lan rộng khắp Châu Âu và Hoa Kỳ để ngăn chặn sự lan rộng của bệnh lao.

Sau những năm 1880, bệnh lao đã trở thành một căn bệnh đáng quan tâm ở Anh; đã có các chiến dịch cấm khạc nhổ ở những nơi công cộng, và những người nghèo bị nhiễm bệnh bị áp lực phải vào các trại điều dưỡng giống như nhà tù; trong khi các viện điều dưỡng dành cho tầng lớp trung lưu và thượng lưu cung cấp dịch vụ chăm sóc tuyệt vời và chăm sóc y tế liên tục. Bất kể lợi ích của không khí trong lành và trị liệu trong viện điều dưỡng, ngay cả trong điều kiện tốt nhất, 50% bệnh nhân đã chết trong vòng 5 năm (số liệu năm 1916). nhưng phải đến sau Thế chiến 2, BCG mới được chấp nhận rộng rãi ở Anh và Đức. Trong những ngày đầu của Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh, máy X-quang phát hiện lao tăng đột biến nhưng tỷ lệ tiêm chủng ban đầu rất thấp. Năm 1953, học sinh trung học đã được thống nhất nên được chủng ngừa, nhưng đến cuối năm 1954 chỉ có 250.000 người được chủng ngừa. Đến năm 1956, con số này đã tăng lên 600.000, khoảng một nửa là trẻ em đi học.

Tại Ý, vắc xin khuếch tán Salvioli (Vaccino Diffondente Salvioli; VDS) được sử dụng từ năm 1948 đến năm 1976. Nó được phát triển bởi Giáo sư Gaetano Salvioli (1894–1982) của Đại học Bologna.

Điều trị

alt= Tuberculosis mortality in the USA from 1861 to 2014.|thumb|Tỷ lệ tử vong do bệnh lao ở Hoa Kỳ từ năm 1861 đến năm 2014. thumb|Y tá chuyên khoa tại 'Trường không khí trong lành' 18 giường dành cho trẻ em mắc bệnh lao. Bệnh viện Hoàng gia Victoria, Montreal. Năm 1939.

Thời cận đại, một số can thiệp phẫu thuật, bao gồm cả kỹ thuật thổi khí màng phổi hoặc ghép màng phổi - làm xẹp phổi bị nhiễm trùng để nó "nghỉ ngơi" và cho phép các tổn thương lành lại - đã được sử dụng để điều trị bệnh lao Tràn khí màng phổi không phải là một kỹ thuật mới. Năm 1696, Giorgio Baglivi đã báo cáo về sự cải thiện chung ở những người bị bệnh lao sau khi họ có những vết thương do gươm đâm vào ngực. FH Ramadge gây ra ca tràn khí màng phổi điều trị thành công đầu tiên vào năm 1834, và sau đó được báo cáo rằng bệnh nhân đã được chữa khỏi. Tuy nhiên, vào thế kỷ 20, các nhà khoa học đã tìm cách điều tra nghiêm ngặt tính hiệu quả của các phương pháp như vậy. Carlo Forlanini đã thử nghiệm với kỹ thuật tạo khí màng phổi nhân tạo của ông từ năm 1882 đến năm 1888 và điều này bắt đầu được thực hiện chỉ những năm sau đó. Năm 1939, Tạp chí Lao của Anh đã công bố một nghiên cứu của Oli Hjaltested và Kjeld Törning trên 191 bệnh nhân trải qua quy trình này từ năm 1925 đến năm 1931; năm 1951, Roger Mitchell đã xuất bản một số bài báo về kết quả điều trị của 557 bệnh nhân được điều trị từ năm 1930 đến năm 1939 tại Trudeau Sanatorium ở Saranac Lake. Tuy nhiên, việc tìm kiếm thuốc chữa bệnh vẫn tiếp tục một cách nghiêm túc.

Trong thời kỳ Đức Quốc xã chiếm đóng Ba Lan, SS-Obergruppenführer Wilhelm Koppe đã tổ chức hành quyết hơn 30.000 bệnh nhân Ba Lan mắc bệnh lao - ít ai biết hoặc quan tâm rằng việc chữa khỏi gần như nằm trong tầm tay. Ở Canada, các bác sĩ tiếp tục phẫu thuật loại bỏ bệnh lao cho bệnh nhân bản địa trong những năm 1950 và 60, ngay cả khi thủ thuật này không còn được thực hiện trên bệnh nhân không phải là người bản địa.

Năm 1944, Albert Schatz, Elizabeth Bugie và Selman Waksman đã phân lập được streptomycin do một chủng vi khuẩn Streptomyces griseus sản xuất. Streptomycin là chất kháng sinh hiệu quả đầu tiên chống lại được vi khuẩn M. tuberculosis. Khám phá này thường được coi là khởi đầu kỷ nguyên hiện đại của điều trị bệnh lao, mặc dù cuộc cách mạng thực sự chỉ bắt đầu vài năm sau đó, vào năm 1952, với sự phát triển của isoniazid, loại thuốc diệt vi khuẩn đường miệng đầu tiên. Do việc loại bỏ các cơ sở y tế công cộng ở New York và sự xuất hiện của HIV, có sự bùng phát trở lại của bệnh lao vào cuối những năm 1980. Số lượng bệnh nhân không hoàn thành liệu trình sử dụng thuốc của họ là khá cao. New York đã phải đương đầu với hơn 20.000 bệnh nhân lao với các chủng vi khuẩn đa kháng thuốc (ít nhất là kháng cả rifampin và isoniazid).

Để đối phó với sự bùng phát trở lại của bệnh lao, Tổ chức Y tế Thế giới đã ban bố tình trạng khẩn cấp về sức khỏe toàn cầu vào năm 1993. Năm 2008, gần nửa triệu trường hợp mắc bệnh lao đa kháng thuốc mới (MDR-TB) được ước tính xảy ra trên toàn thế giới

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Bài viết này trình bày chi tiết về **lịch sử của Lào kể từ sau năm 1945**. ## Thế chiến 2 Xứ ủy Ai Lao, phân bộ của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành
**Lao** là bệnh truyền nhiễm qua đường hô hấp thường do vi khuẩn _Mycobacterium tuberculosis_ gây ra. Lao lây truyền từ người sang người qua không khí khi người bệnh lao hoạt tính ho, khạc
Nước Lào chỉ bắt đầu từ năm 1945. Ý tưởng về một quốc gia Lào riêng biệt được hình thành từ thế kỷ 19, khi những tư tưởng phương tây về đặc tính quốc gia
Bằng chứng về sự hiện diện của con người ở các vùng cao nguyên phía bắc và trung tâm bán đảo Đông Dương đã tạo nên lãnh thổ của dân tộc Lào hiện đại từ
**Nội chiến Lào** là cuộc chiến tranh thường được tính bắt đầu từ tháng 5 năm 1959 và kết thúc vào tháng 12 năm 1975, theo các tài liệu truyền thống tại phương Tây, tại
**Đảng Nhân dân Cách mạng Lào** là đảng cầm quyền ở Lào theo Hiến pháp. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào chính thức thành lập vào ngày 22 tháng 3 năm 1955. Đảng đã lãnh
**Lào Cai** trước đây là một thành phố biên giới phía bắc và là tỉnh lỵ của tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Từ 01/07/2025, thành phố chính thức kết thúc hoạt động và được tổ
phải|Món ăn Lào thường hay có xôi nếp ăn kèm **Ẩm thực Lào** mang phong cách tương tự các quốc gia láng giềng là Campuchia và Thái Lan: cay, mặn và chua. Tuy nhiên, ẩm
Một nhà máy đang có tranh chấp lao động ở Michigan, Hoa Kỳ **Tranh chấp lao động** là những tranh chấp về quyền và lợi ích phát sinh trong quan hệ lao động giữa người
**Quan hệ Lào – Việt Nam** hay còn được biết đến với tên thông dụng là **Quan hệ hữu nghị Việt – Lào** là mối quan hệ cấp đặc biệt, đồng minh chiến lược theo
**Người Lào** (tiếng Lào: ລາວ, tiếng Isan: ลาว, IPA: láːw) là một dân tộc có vùng cư trú truyền thống là một phần bắc bán đảo Đông Dương. Họ là một phân nhóm của các
**Lục quân Hoàng gia Lào** (tiếng Pháp: _Armée Royale du Lào_ - ARL hoặc RLA theo kiểu Mỹ), là quân chủng lục quân thuộc Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào và là lực lượng
**Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa** () là danh hiệu nhà nước Liên Xô, đồng thời là danh hiệu cao nhất cho lĩnh vực lao động từ năm 1938 đến năm 1991. ##
**Không quân Hoàng gia Lào** (tiếng Pháp: _Aviation Royale Laotienne_ – AVRL; tiếng Anh: _Royal Lao Air Force_), là quân chủng không quân của Quân lực Hoàng gia Lào (FAR), quân đội chính thức của
phải|thumb|Lao động Việt Nam được khai thác, đào tạo tại [[Cộng hòa Dân chủ Đức|Đông Đức năm 1982.]] **Xuất khẩu lao động Việt Nam ra nước ngoài**, thường gọi tắt là **Xuất khẩu lao động
phải|nhỏ|300x300px|Cơ chế tác động của các loại thuốc điều trị lao. **Quản lý bệnh lao **đề cập đến những điều trị y học của các nhiễm trùng lao (Tuberculosis - TB). Tiêu chuẩn "ngắn hạn"
**Lao đa kháng thuốc** (**MDR-TB**) là một dạng nhiễm lao (TB) do vi khuẩn kháng với điều trị bằng ít nhất hai loại thuốc chống lao hàng đầu mạnh nhất: **isoniazid** (trong phác đồ thường
**Sao Lão Nhân** hay **Sao Thọ,** tên tiếng Anh là **Canopus,** là ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Thuyền Để ở Thiên cầu Nam. Nó là ngôi sao sáng thứ hai trên bầu trời
phải|Cụ già [[Ann Pouder (8 tháng 4 năm 1807 - 10 tháng 7 năm 1917) là một trong những người sống thọ nhất thế giới. Ảnh được chụp trong ngày sinh nhật lần thứ 110
thumb|Biểu tượng bụi cây cháy được sử dụng phổ biển bởi các giáo hội Presbyterian, ở đây là tại Ireland. Dòng chữ [[Latinh nghĩa là "đốt cháy nhưng triển nở". Các phiên bản khác cũng
**Lao động**, trong kinh tế học, được hiểu là một yếu tố sản xuất do con người tạo ra và là một dịch vụ hay hàng hóa. Người có nhu cầu về hàng hóa này
**Tổng cục Trại giam** (, _Glavnoe upravlenie lagerei_) còn được gọi tắt là **Gulag** (ГУЛаг) là hệ thống trại cải tạo bằng lao động, lần lượt chịu sự quản lý của Bộ Dân ủy Nội
**Cù lao** là từ ngữ chỉ đảo, được Luật Đê điều Việt Nam 2006 định nghĩa "là vùng đất nổi lên trong phạm vi lòng sông". Ngoài ra, cù lao còn được sử dụng để
**Viện nguyên lão** là một tổ chức chính trị ở La Mã cổ đại. Đây là một tổ chức lâu dài nhất trong lịch sử La Mã, được thành lập trong những ngày đầu tiên
**Quân đội Nhân dân Lào** (, _Kongthap Pasaxon Lao_) là lực lượng vũ trang chính quy của Lào, giữ trọng trách bảo vệ đất nước. Về danh nghĩa, Quân đội Nhân dân Lào đặt dưới
**Xứ Bảo hộ Lào** (), hoặc **Lào thuộc Pháp** () là một vùng đất bảo hộ thuộc Đế quốc thực dân Pháp, bao gồm hầu hết lãnh thổ Vương quốc Lan Xang trước đây. Lãnh
**Mặt trận Lào Xây dựng Đất nước** (, _Neo Lao Sang Xat_) được thành lập vào năm 1979, và được lãnh đạo bởi Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Nhiệm vụ là tổ chức quần
Cộng đồng **người Việt Nam tại Lào** tương đối đông đảo với khoảng 30–40.000 người và còn đang tăng lên. Do vị trí địa lý gần gũi cũng như từng là thuộc địa của Pháp
nhỏ|phải|Lao động nước ngoài ở Qatar nhỏ|phải|Hai lao động nước ngoài ở Đài Loan **Lao động nước ngoài** (_Foreign worker_) là những người làm việc ở một quốc gia khác với quốc gia mà họ
**Bảng chữ cái Lào, chữ Lào** hay **Akson Lao** (; , _ắc-xỏn Láo_) là bảng chữ cái chính thức được sử dụng để viết tiếng Lào và các ngôn ngữ thiểu số khác ở CHDCND
**Lào Cai** là một tỉnh thuộc vùng Tây Bắc Bộ, Việt Nam. Bản đồ châu Thủy Vĩ phủ Quy Hóa trấn Hưng Hóa nước Đại Việt thời Hậu Lê. phải|Bản đồ châu Thủy Vĩ phủ
=Chẩn đoán bệnh lao tiềm ẩn = Có hai loại xét nghiệm thường được sử dụng để xác định bệnh nhân có bệnh lao tiềm ẩn: xét nghiệm da tuberculin và xét nghiệm IFN-γ (Interferon-gamma).
**Hợp đồng lao động** là văn bản thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, trong đó quy định điều kiện lao động, quyền và
**Phong trào lao động** bao gồm hai cánh chính, **phong trào công đoàn** hoặc **liên minh lao động**; và **phong trào lao động chính trị**. * Phong trào công đoàn bao gồm một tổ chức
**Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa I** () được tổ chức từ ngày 22 tháng 3 đến ngày 6 tháng 4 năm 1955 tại tỉnh Hủa Phăn. Đại hội có 40 đại
**Trường Đại học Lao động – Xã hội** là trường đại học công lập được thành lập trên cơ sở Trường Cao đẳng Lao động - Xã hội theo Quyết định số 26/2005/QĐ-TTg ngày 31/1/2005
**Đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai** (ký hiệu toàn tuyến là **CT.05**, hay còn gọi là **đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai**) là một đoạn đường cao tốc thuộc hệ thống
**Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội** là cơ quan cũ của Chính phủ Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: lao động, tiền lương; việc
**Cù Lao Dung** là một huyện cũ thuộc tỉnh Sóc Trăng cũ, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Cù Lao Dung nằm ở phía đông tỉnh Sóc Trăng, có vị trí địa lý: *Phía đông
**Cù lao Giêng** là một cù lao nằm ở giữa sông Tiền thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, Việt Nam. ## Tên gọi, lịch sử Cù lao dài khoảng 12 km, rộng 7 km; và
**Tiếng Lào** (tên gốc: ພາສາລາວ; phát âm: _phasa lao_ ) là ngôn ngữ chính thức tại Lào. Tiếng Lào là một ngôn ngữ thuộc Ngữ chi Thái trong hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Tiếng Lào chịu
**Vương quốc Lào** (tiếng Lào: _ພຣະຣາຊອານາຈັກລາວ_ / _Phra Ratxa A-na-chak Lao_, tiếng Pháp: _Royaume du Laos_) là một chính thể quốc gia tồn tại từ năm 1947 cho đến khi giải thể để thay thế
[[Tập tin:Enfants au travail dans le monde.png|Tỉ lệ lao động trẻ em theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới năm 2006 ]] nhỏ|Một số hình thức của lao động trẻ em tại [[Trung Mỹ,
**Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Lào** hoặc **Quân lực Hoàng gia Lào** (tiếng Pháp: _Forces Armées du Royaume_ viết tắt FAR), là lực lượng quốc phòng vũ trang chính thức của Vương quốc Lào,
**Hiệp định Quốc tế về Trung lập Lào** () là hiệp định quốc tế được ký kết tại Genève vào ngày 23 tháng 7 năm 1962 giữa 14 quốc gia, trong đó có Lào, là
thumb|Ru-băng ngày tưởng niệm thumb|Bích chương ngày tưởng niệm năm 2010 với hình và câu nói của lãnh tụ công đoàn Mỹ [[Mary Harris Jones: "_Cầu nguyện cho người chết và chiến đấu hết sức
**Các dân tộc Lào** hay _các bộ tộc Lào_ là một danh từ chung để chỉ các dân tộc sống trên lãnh thổ nước CHDCND Lào. thumb|Nhà sàn của người Lào Thơng Phần lớn các
**Tiếng Cờ Lao** (tự gọi: Kláo, ) là một phương ngữ của tiếng Kra thuộc hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Nó được nói bởi những người Cờ Lao ở miền nam Trung Quốc và miền bắc
**Lao siêu kháng thuốc** (**XDR-TB**) là tình trạng bệnh nhân mắc bệnh lao mà vi khuẩn lao có mặt trong cơ thể là chủng kháng một số loại thuốc chống lao hiệu quả nhất. Các
**Bóc lột lao động** là hành động sử dụng quyền lực để trích xuất một cách có hệ thống nhiều giá trị từ người lao động hơn là những gì được trao cho họ. Đó