Krzysztof Kieślowski (; 27 tháng 6 năm 1941 – 13 tháng 3 năm 1996) là một đạo diễn và nhà biên kịch điện ảnh người Ba Lan. Ông nổi tiếng với khán giả quốc tế nhờ các bộ phim Dekalog (1989), Podwójne życie Weronik (1991) và chuỗi bộ ba phim Three Colours (1993–1994). Kieślowski đã gặt hái nhiều giải thưởng xuyên suốt sự nghiệp như Giải của ban giám khảo tại Liên hoan phim Cannes (1988), giải FIPRESCI (1988, 1991), Giải của ban giám khảo giáo hội toàn cầu (1991), giải FIPRESCI của Liên hoan phim Venezia (1989), Sư tử vàng (1993), giải OCIC (1993) và Gấu bạc của Liên hoan phim quốc tế Berlin (1994). Năm 1995, ông nhận các đề cử giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất và kịch bản xuất sắc nhất. Năm 2002, Kieślowsk được Viện điện ảnh Anh Quốc liệt ở vị trí số 2 trong danh sách Sight & Sound nhằm tôn vinh top 10 đạo diễn điện ảnh hay nhất thời hiện đại.
Xuất thân
Kieślowski chào đời tại Warszawa, Ba Lan. Ông là con trai của Barbara (nhũ danh Szonert) và Roman Kieślowski. Ông lớn lên ở nhiều thị trấn nhỏ, sẵn sàng chuyển đến bất cứ đâu để người cha kỹ sư mắc bệnh lao của anh có thể an tâm điều trị. Ông được nuôi lớn theo Giáo hội Công giáo và duy trì mối quan hệ mà ông gọi là "riêng tư và cá nhân" với Chúa. Năm 16 tuổi, ông theo học trường đào tạo lính cứu hỏa, nhưng rồi bỏ học chỉ sau 3 tháng. Dù không có mục tiêu sự nghiệp nào, sau đó ông đỗ vào Trường cao đẳng kỹ thuật sân khấu tại Warszawa vào năm 1957 do trường này được điều hành bởi một người họ hàng của ông. Ông muốn trở thành một đạo diễn kịch nghệ, nhưng lại thiếu bằng cử nhân của khoa kịch nghệ nên ông đã chọn học ngành điện ảnh để làm cầu nối trung gian.
Sự nghiệp
Sau khi tốt nghiệp và làm thiết kế sân khấu kịch, Kieślowski đã nộp đơn vào Trường học điện ảnh Łódź – nơi từng đào tạo các đạo diễn lừng danh của Ba Lan như Roman Polanski và Andrzej Wajda. Ông đã bị từ chối hai lần. Để tránh phải đi nghĩa vụ quân sự trong thời gian này, ông trở thành một sinh viên nghệ thuật ngắn hạn và còn thực hiện một chế độ ăn kiêng nghiêm ngặt để làm cho cơ thể mình không đủ sức khỏe để đi quân sự. Sau nhiều tháng trốn quân dịch, ông được nhận vào khoa đạo diễn của trường vào năm 1964 sau lần nộp đơn thứ 3. Ông học Trường điện ảnh Łódź cho đến năm 1968 và bất chấp bị nhà nước kiểm duyệt và ngăn đi du lịch nước ngoài, ông vẫn có thể đi du lịch khắp Ba Lan để nghiên cứu và ghi hình phim tài liệu của mình. Kieślowski mất hứng thú với sân khấu kịch và quyết định chuyển sang làm phim tài liệu.
Đời tư
Kieślowski đã cưới người tình lâu năm Maria (Marysia) Cautillo vào ngày 21 tháng 1 năm 1967 trong năm cuối ông học ở trường điện ảnh. Họ có với nhau một cô con gái tên Marta (sinh 8 tháng 1 năm 1972) và chung sống cùng nhau cho đến ngày ông lìa đời. Ông tự nhận mình là người "có một đặc tính tốt: tôi là một người bi quan. Tôi luôn tưởng tượng ra điều tồi tệ nhất. Với tôi thì tương lai là một cái hố đen." Ông được miêu tả là "truyền tải nỗi buồn của một hiền nhân chán đời", "một kẻ bi quan nghiền ngẫm về trí tuệ và thói quen". Trong chuyến ghé thăm đất Mỹ, ông nhấn mạnh việc "theo đuổi cuộc trò chuyện vô vị kết hợp với sự tự mãn ở mức rất là cao."
Danh sách phim
Phim tài liệu và phim ngắn
- The Face (Twarz 1966), diễn viên
- The Office (Urząd 1966)
- Tramway (Tramwaj 1966)
- Concert of Requests (Koncert życzeń 1967)
- The Photograph (Zdjęcie 1968)
- From the City of Łódź (Z miasta Łodzi 1968)
- I Was a Soldier (Byłem żołnierzem 1970)
- Factory (Fabryka 1970)
- Workers '71: Nothing About Us Without Us (Robotnicy '71: Nic o nas bez nas 1971)
- Before the Rally (Przed rajdem 1971)
- Between Wrocław and Zielona Góra (Między Wrocławiem a Zieloną Górą 1972)
- The Principles of Safety and Hygiene in a Copper Mine (Podstawy BHP w kopalni miedzi 1972)
- Gospodarze (1972)
- Refrain (Refren 1972)
- The Bricklayer (Murarz 1973)
- First Love (Pierwsza miłość 1974)
- X-Ray (Przeswietlenie 1974)
- Pedestrian Subway (Przejście podziemne 1974)
- Curriculum Vitae (Życiorys 1975)
- Hospital (Szpital 1976)
- Slate (Klaps 1976)
- From a Night Porter's Point of View (Z punktu widzenia nocnego portiera 1977)
- I Don't Know (Nie wiem 1977)
- Seven Women of Different Ages (Siedem kobiet w roznym wieku 1978)
- Railway Station (Dworzec 1980)
- Talking Heads (Gadające glowy 1980)
- Seven Days a Week (Siedem dni tygodniu 1988)
Phim dài và phim truyền hình chính kịch
- Personnel (Personel phim truyền hình 1975)
- The Scar (Blizna 1976)
- The Calm (Spokój 1976)
- Camera Buff (Amator 1979)
- Short Working Day (Krótki dzień pracy 1981)
- No End (Bez końca 1985)
- Blind Chance (Przypadek 1987)
- Dekalog (1988)
- A Short Film About Killing (Krótki film o zabijaniu 1988)
- A Short Film About Love (Krótki film o miłości 1988)
- The Double Life of Veronique (La Double vie de Veronique/Podwójne życie Weroniki 1991)
- Three Colours: Blue (Trois couleurs: Bleu/Trzy kolory: Niebieski 1993)
- Three Colours: White (Trois couleurs: Blanc/Trzy kolory: Biały 1994)
- Three Colours: Red (Trois couleurs: Rouge/Trzy kolory: Czerwony 1994)
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|190x190px|Logo của Trường Điện ảnh Katowice (Khoa Phát thanh và Truyền hình Krzysztof Kieślowski) nhỏ|Trường Điện ảnh Krzysztof Kieślowski **Trường Điện ảnh Krzysztof Kieślowski**, hay **Trường Điện ảnh Katowice**, hay **Khoa Phát thanh và Truyền
**Krzysztof Kieślowski** (; 27 tháng 6 năm 1941 – 13 tháng 3 năm 1996) là một đạo diễn và nhà biên kịch điện ảnh người Ba Lan. Ông nổi tiếng với khán giả quốc tế
**Krzysztof Pius Zanussi** (sinh ngày 17 tháng 6 năm 1939) là một đạo diễn, nhà sản xuất và biên kịch điện ảnh và kịch nghệ người Ba Lan. Ông là giáo sư ngành điện ảnh
**Liên hoan phim Gdynia** (tiếng Ba Lan: Festiwal Polskich Filmów Fabularnych w Gdyni) (tên viết tắt PPFP) là một trong số những sự kiện phim ảnh lâu đời nhất, được được tổ chức hàng năm
**Jerzy Oskar Stuhr** (; (sinh ngày 18 tháng 4 năm 1947) là một trong những diễn viên điện ảnh và rạp chiếu phim nổi tiếng, có ảnh hưởng và có ảnh hưởng nhất tại Ba
**Giải César cho phim hay nhất** là một giải thưởng điện ảnh được Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Kỹ thuật Điện ảnh của Pháp trao hàng năm cho phim được bầu chọn là hay
**Cuộc đời đôi của Weronika** (tiếng Pháp: _La double vie de Véronique_, tiếng Ba Lan: _Podwójne życie Weroniki_) là một bộ phim điện ảnh sản xuất năm 1991 bằng ngôn ngữ Pháp và Ba Lan
**Wojciech Kilar** (; sinh 17 tháng 7 năm 1932 - mất 29 tháng 12 năm 2013) là một nhà soạn nhạc cho các phim của Ba Lan. Nhạc phim ông sáng tác đã giành được
phải|nhỏ|300x300px| Tòa nhà lịch sử của gia đình Scheibler phải|nhỏ|225x225px| Bản đồ thành đường, 1823 **Đường Piotrkowska** (), đường giao thông chính của Łódź, Ba Lan, là một trong những con đường thương mại dài
**Đại học Silesia ở Katowice** () là một trường đại học tự chủ ở tỉnh Silesia, Katowice, Ba Lan. Không nên nhầm lẫn với một trường đại học có tên tương tự ở Cộng hòa
**Nghĩa trang Powązki** (; ), còn được gọi là **Stare Powązki** () là một nghĩa trang lịch sử nằm ở quận Wola, phía tây Warsaw, Ba Lan. Đây là nghĩa trang nổi tiếng nhất trong
**Olaf Sergiusz Linde-Lubaszenko** (sinh ngày 6 tháng 12 năm 1968 tại Wrocław) là một diễn viên và đạo diễn điện ảnh người Ba Lan. Ông là con trai của nam diễn viên người Đức gốc
**Jan Kanty Pawluśkiewicz** (sinh ngày 13 tháng 10 năm 1942 tại Nowy Targ) là một nhà soạn nhạc và nhạc công người Ba Lan. Ông nổi tiếng với màn kết hợp cùng nam ca sĩ
**Jan Paweł Matuszyński** (sinh ngày 23 tháng 4 năm 1984 tại Katowice) là một đạo diễn điện ảnh và nhà sản xuất phim tài liệu người Ba Lan. ## Cuộc đời Jan Paweł Matuszyński tốt
**Andrzej Jakimowski** (sinh ngày 17 tháng 8 năm 1963) là một đạo diễn điện ảnh, nhà văn và nhà sản xuất phim người Ba Lan. Ông nổi tiếng với việc đạo diễn các bộ phim
**Liên hoan phim Ba Lan tại New York** (viết tắt là **NYPFF**, trong tiếng Ba Lan: _Nowojorski Festiwal Filmów Polskich_), là một liên hoan phim được tổ chức thường niên tại Thành phố New York
**Magdalena Piekorz** (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1974 tại Sosnowiec) là một đạo diễn điện ảnh, nhà biên kịch, diễn viên điện ảnh và diễn viên sân khấu người Ba Lan. ## Cuộc đời
Ngày **13 tháng 3** là ngày thứ 72 (73 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 293 ngày trong năm. ## Sự kiện *1781 – Nhà thiên văn học William Herschel quan sát thấy sao
Màu **đỏ** là màu sắc mà đa số người cảm nhận được khi nhìn vào hình bên. ## Trong vật lý Ánh sáng có màu đỏ là ánh sáng ít bị khúc xạ nhất nên
**Giải Phim châu Âu** là một giải do Viện Hàn lâm Phim châu Âu (_European Film Academy_) trao hàng năm cho các thành tựu trong ngành điện ảnh châu Âu. Giải gồm trên 10 thể
**Giải Goya cho phim châu Âu hay nhất** (tiếng Tây Ban Nha: _Premio Goya a la mejor película europea_) là một trong các giải Goya dành cho một phim của một nước châu Âu, được
thumb|[[Trần Mộc Thắng, đạo diễn của điện ảnh Hồng Kông.]] **Đạo diễn** là người chịu trách nhiệm chỉ đạo quá trình thực hiện một tác phẩm nghe nhìn, thường là điện ảnh hoặc truyền hình.
**Ernst** (sinh ngày 14 tháng 7 năm 1918, mất ngày 30 tháng 7 năm 2007) là một đạo diễn điện ảnh và sân khấu nổi tiếng người Thụy Điển. Bergman được coi là một trong
**_2046_** là một bộ phim của đạo diễn Vương Gia Vệ quay tại Thượng Hải năm 2004. Bộ phim được xem như phần tiếp theo của _Tâm trạng khi yêu_ (_In the Mood for Love_)
430x430px|thumb|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Bài hát "[[Macarena (bài hát)|Macarena", được hát bởi Los del Río và trộn bài bởi The Bayside Boys, trở thành một cơn sốt khiêu vũ lớn và
**Ba màu** (tiếng Ba Lan:_Trzy kolory_) là tên chỉ loạt 3 bộ phim của đạo diễn Krzysztof Kieślowski, một sự hợp tác của Ba Lan - Pháp - Thụy Sĩ. Tên của các bộ phim:
**Irène Marie Jacob** (sinh ngày 15 tháng 7 năm 1966) là nữ diễn viên Pháp gốc Thụy Sĩ, được coi là một trong những nữ diễn viên Pháp ưu việt của thế hệ của mình.
**Zbigniew Preisner** (phát âm gốc tiếng Ba Lan: [ˈzbiɡɲɛf ˈpɾajsnɛɾ]; sinh ngày 20 tháng 5 năm 1955 tại Bielsko-Biała, với tên khai sinh là Zbigniew Antoni Kowalski) là một nhà soạn nhạc phim người Ba
**Catherine Élise "Cate" Blanchett** (sinh ngày 14 tháng 5 năm 1969) là một nữ diễn viên điện ảnh người Úc. Cô đã từng nhận rất nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có ngôi sao
**Liên hoan phim Kraków** () là một trong những sự kiện lâu đời nhất của châu Âu dành riêng cho phim tài liệu, hoạt hình và các hình thức phim ngắn khác. Nó đã được