✨Katsu Kaishū

Katsu Kaishū

Bá tước , nổi tiếng với biệt danh , là một chính khách và kỹ sư hải quân dưới thời Bakumatsu và đầu thời Minh Trị. Kaishū là biệt danh mà ông lấy từ một bức thư pháp (Kaishū Shooku ) của Sakuma Shōzan. Ông đã trải qua một loạt các tên được đặt trong suốt cuộc đời của mình; tên thời thơ ấu của ông là . Ông thường được gọi là từ tước hiệu trong thời kỳ Bakumatsu và sau đó đổi tên thành Yasuyoshi sau Minh Trị Duy tân.

Katsu Kaishū cuối cùng đã vươn lên đến địa vị chức Quân hạm phụng hành (Gunkan-bugyō) trong hải quân Tokugawa. Ông đặc biệt nổi tiếng với vai trò của mình khi quyết định để thành Edo đầu hàng không đổ máu trước quan quân triều đình trong chiến tranh Boshin.

Tiểu sử

thumb|Kaishū Katsu thời Bakumatsu thumb|Mộ Katsu Kaishū tại Công viên Công cộng Senzoku Pond, [[Tokyo]] Katsu Yoshikuni sinh ngày 12 tháng 3 năm 1823, tại Edo, một gia thần cấp thấp của Tướng quân Tokugawa. Cha ông, Katsu Kokichi, chủ đề của cuốn tự truyện, Câu chuyện của Musui, là người đứng đầu xấu tính của một gia đình samurai nhỏ. Khi còn là một thanh niên có tên thời thơ ấu là Katsu Rintarō (Kaishu là bút danh), ông theo học khoa học quân sự của Hà Lan và châu Âu, và cuối cùng được Mạc phủ bổ nhiệm làm phiên dịch khi các cường quốc châu Âu cố gắng mở rộng liên hệ với Nhật Bản. Katsu đã sớm nổi danh như một chuyên gia về công nghệ quân sự phương Tây. Dưới sự cố vấn của các sĩ quan hải quân Hà Lan, Katsu từng là trưởng học viên hải quân tại Sở Thao luyện Hải quân Nagasaki từ năm 1855 đến năm 1859.

Năm 1860, Katsu làm thuyền trưởng tàu chiến Kanrin-maru (với sự hỗ trợ của sĩ quan hải quân Hoa Kỳ, Trung úy John M. Brooke), để hộ tống phái đoàn Nhật Bản đầu tiên đến San Francisco, California, trên đường đến Washington, DC, nhằm chính thức phê chuẩn Hiệp ước Harris. Kanrin Maru, do người Hà Lan đóng, là con tàu đầu tiên của Nhật Bản đi đến thế giới phương Tây. Kaishū vẫn ở lại San Francisco gần hai tháng, quan sát xã hội, văn hóa và công nghệ Mỹ. Sau khi trở về Nhật Bản, Katsu đã nắm giữ một loạt chức vụ cấp cao trong hải quân Tokugawa, tranh luận trước Mạc phủ ủng hộ một lực lượng hải quân thống nhất của Nhật Bản do các sĩ quan được đào tạo chuyên nghiệp lãnh đạo bất chấp sự thăng tiến và phân công do địa vị cha truyền con nối. Trong thời gian ông chỉ huy với tư cách là giám đốc Trường Hải quân Kobe, học viện này sẽ trở thành nguồn hoạt động chính cho những người theo chủ nghĩa cải cách và tư duy tiến bộ từ năm 1863 đến năm 1864.

Năm 1866, Katsu được bổ nhiệm làm nhà đàm phán giữa quân Mạc phủ và phiên chống Mạc phủ ở Chōshū, và sau đó làm trưởng đoàn đàm phán cho Mạc phủ Tokugawa, đảm bảo quá trình chuyển giao quyền lực tương đối hòa bình và có trật tự trong cuộc Minh Trị Duy tân.

Mặc dù đồng cảm với sự nghiệp chống Tokugawa, Katsu vẫn trung thành với Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Sau sự sụp đổ của quân Tokugawa vào cuối năm 1867, Katsu đã thương lượng về việc mở cửa thành Edo đầu hàng quan quân của Saigō Takamori vào ngày 11 tháng 4 năm 1868.

Katsu chuyển đến Shizuoka sau khi chính phủ mới nắm quyền kiểm soát thủ đô cũ của Tướng quân, nơi được đổi tên thành Tokyo ("Thủ đô phía Đông"). Ông trở lại phục vụ chính phủ một thời gian ngắn với tư cách là Thứ trưởng Bộ Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1872, sau đó là Bộ trưởng Bộ Hải quân đầu tiên từ năm 1873 đến năm 1878. Với tư cách là Katsu Yasuyoshi, ông là người nổi bật nhất trong số các gia thần cũ của Tokugawa đã tìm được việc làm trong chính phủ Minh Trị mới, và là từ năm 1869 đến 1885, không xuất thân từ một trong bốn phiên trấn tối quan trọng. Mặc dù ảnh hưởng của ông trong hải quân là rất ít, vì Hải quân chủ yếu được chi phối bởi nòng cốt là các sĩ quan Satsuma, Katsu đã phục vụ trong vai trò cố vấn cao cấp về chính sách quốc gia. Trong hai thập kỷ tiếp theo, Katsu phục vụ trong Xu mật viện và viết nhiều về các vấn đề hải quân.

Ông cũng nỗ lực khôi phục danh dự của Tokugawa Yoshinobu và Saigō Takamori.

Năm 1887, ông được nâng lên tước hiệu hakushaku (bá tước) trong hệ thống hàng quý tộc kazoku. Katsu đã ghi lại hồi ký của mình trong cuốn sách mang tên Hikawa Seiwa.

Năm 1891, thông qua mối liên hệ của Tsuda Sen, cha của Tsuda Ume, Katsu Yasuyoshi đã mua một khu đất tại , và xây dựng nhà nghỉ hưu của mình ở đó. Sau khi qua đời vào năm 1899, ông được chôn cất cùng vợ Tami gần khu vực nhà của họ, trên bờ Senzoku Pond, nơi ngày nay là ở Tokyo.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Bá tước , nổi tiếng với biệt danh , là một chính khách và kỹ sư hải quân dưới thời Bakumatsu và đầu thời Minh Trị. Kaishū là biệt danh mà ông lấy từ một
(31/5/1835 - 20/6/1869). Là một kiếm khách và chiến lược gia đại tài trong lịch sử quân sự Nhật Bản. Với vai trò Phó cục trưởng Shinsengumi (新選組 Tân Tuyển Tổ, lực lượng cảnh sát
(3/1/1836 – 10/12/1867) là một nhà lãnh đạo phong trào chống đối Mạc Phủ Tokugawa trong thời kỳ Bakumatsu tại Nhật Bản. Ông còn sử dụng tên khác là Saitani Umetarou trong khi hoạt động
thumb|Người thứ hai từ bên phải là Matsudaira Tarō. Những người khác gồm [[Ōzeki Masuhiro, Katsu Kaishū, Inaba Masami, Ishikawa Shigetaka, Robert B. Van Valkenburgh (Công sứ Mỹ), Ezure Akinori (Ngoại quốc phụng hành).]] là
, còn gọi là Yoshifuru, là một samurai sống vào cuối thời Edo, được coi là một trong bốn sát thủ nổi tiếng thời Bakumatsu. Ông là thành viên của Đảng Cần vương Tosa (土佐勤王党,
đôi khi được gọi là **Sakuma Zōzan**, tự **Tử Địch** (子迪 してき) sau xưng là **Tử Minh** (子明 しめい), là một chính trị gia và học giả Nhật Bản cuối thời Edo. ## Tiểu sử
, còn gọi là và , diễn ra vào tháng 5 và tháng 7 năm 1868, khi thành Edo (nay là Tokyo), do Mạc phủ Tokugawa kiểm soát, rơi vào tay lực lượng quan quân
**Jidai-geki** (thời đại kịch) là một thể loại phim điện ảnh, phim truyền hình hay kịch nói với bối cảnh là các thời kỳ trước cuộc Duy Tân Meiji (Minh Trị), trước thời Edo hoặc
, còn gọi là **Ono Tetsutarō** hoặc **Yamaoka Tetsutarō**, là một samurai nổi tiếng của thời kỳ Bakumatsu, đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc Minh Trị Duy Tân. Ông cũng được coi
là một samurai phiên Aizu thời Bakumatsu, về sau trở thành một nhà giáo dục và chính trị gia dưới thời Minh Trị. ## Tiểu sử Yamamoto sinh trưởng tại Aizu, ông thường tự nhận
là một trong 23 khu đặc biệt của Tokyo. Tính đến năm 2010, khu có dân số ước tính 244.982 và mật độ 17.820 người/km². Tổng diện tích 13,75 km². ## Địa lý Sumida nằm ở
là trận đánh giữa phe bảo hoàng và Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin ở Nhật Bản. Trận đánh này tiếp theo Trận Toba-Fushimi ngày 29 tháng 3 năm 1868 (lịch Gregori). ## Mở
hay **chiến tranh Minh Trị Duy tân**, là một cuộc nội chiến ở Nhật Bản diễn ra từ năm 1868 đến năm 1869 giữa quân đội của Mạc phủ Tokugawa đang cầm quyền và những
**Shishi** (志士 hay _Chí sĩ_; đôi khi còn được gọi là 維新志士 **Ishin-shishi** hay _Duy tân chí sĩ_) là cụm từ được dùng để nói về các nhà hoạt động chính trị vào cuối thời
Chữ [[Kanji "Saigō Takamori".]] , nguyên danh là , là một trong những samurai giàu ảnh hưởng nhất trong lịch sử Nhật Bản, sống vào cuối thời kỳ Edo và đầu thời kỳ Minh Trị.
**** là một quốc gia độc lập tồn tại trong một thời gian ngắn do những cựu thần cùng quan chức của chính quyền Mạc phủ Tokugawa thành lập vào ngày 27 tháng 1 năm
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
phải|nhỏ|300x300px|Tòa nhà Bộ Hải quân, Tokyo, vào khoảng năm 1890 **Bộ Hải quân** (海軍省 _Kaigun-shō_