, còn gọi là và , diễn ra vào tháng 5 và tháng 7 năm 1868, khi thành Edo (nay là Tokyo), do Mạc phủ Tokugawa kiểm soát, rơi vào tay lực lượng quan quân triều đình trong Chiến tranh Boshin.
Saigō Takamori, Tổng chỉ huy đạo quân Đông chinh của Thiên hoàng, từ sau chiến thắng trong trận Toba-Fushimi rồi trận Kōshū-Katsunuma, đang trên đường tiến quân đến thủ đô của Mạc phủ. Cuối cùng ông dồn toàn quân bao vây thành Edo vào tháng 5 năm 1868. Katsu Kaishū, cựu Tư lệnh hải quân của Tướng quân Tokugawa Yoshinobu, trên cương vị là Tư lệnh quân Mạc phủ canh giữ thành Edo, để tránh thành phố này rơi vào cảnh đổ máu, ông bèn mời Saigō đến chỗ mình thương lượng về việc mở cửa thành đầu hàng vô điều kiện.
Dù một số nhóm cựu thần Mạc phủ như vẫn tiếp tục kháng cự ngay sau khi chính thức đầu hàng, nhưng do thực lực giữa hai bên chênh lệch quá nhiều nên bị đánh bại hoàn toàn trong trận Ueno ở đông bắc Edo, vào ngày 4 tháng 7 năm 1868. Thành phố giờ đây hoàn toàn nằm trong quyền kiểm soát của triều đình vào tháng 7 năm 1868. Trong suốt thời gian đó, cựu Tướng quân Yoshinobu tự nguyện giam mình tại chùa Kan'ei-ji tỏ ý quy thuận triều đình không một lời oán trách.
Ngày 3 tháng 9 năm 1868, thành phố được đổi tên thành Tokyo ("Đông Kinh"), và Thiên hoàng Minh Trị cùng văn võ bá quan quyết định dời đô đến Tokyo, chọn cư trú tại lâu đài Edo, Cung điện Hoàng gia ngày nay. Nhằm kỷ niệm sự kiện mang ý nghĩa lịch sử này, chính phủ đã cho dựng một tượng đài nhỏ tại địa điểm diễn ra cuộc gặp đầu hàng giữa Saigō Takamori và Katsu Kaishū, nằm ở Minato-ku, Shiba 5-33-1.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
, còn gọi là và , diễn ra vào tháng 5 và tháng 7 năm 1868, khi thành Edo (nay là Tokyo), do Mạc phủ Tokugawa kiểm soát, rơi vào tay lực lượng quan quân
, tên khác là xây dựng năm 1457 bởi Ota Dōkan; là một thành trì nằm trên địa đài thị trấn Kōji (麹町; Kōji-machi) thuộc quận Chiyoda ở Tokyo (Nhật Bản), thời đó được gọi
, còn gọi là **thời kỳ Tokugawa** (徳川時代 _Tokugawa-jidai_, "Đức Xuyên thời đại’’), là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản từ năm 1603 đến năm 1868. Thời kỳ này đánh dấu bằng sự
nhỏ|400x400px| Các kỳ thủ chuyên nghiệp [[Habu Yoshiharu Danh Nhân (thứ nhất từ trái sang) và Watanabe Akira Nhị quán (thứ tư từ trái sang) tại trận Chung kết Giải vô địch Toàn Nhật Bản
nhỏ|Những vật dụng nghệ thuật bằng giấy vào ngày Thất tịch. Triển lãm tại Bảo tàng Lịch sử Hồng Kông **Thất Tịch** () hay còn gọi là **Tết Ngâu**, **Ngày Ông Ngâu Bà Ngâu**, theo
thumb|Phía sau lưng một phụ nữ mặc _kimono_ với khăn quấn _obi_ ở phần thắt lưng theo kiểu _tateya musubi_ là một loại khăn quấn ở phần thắt lưng cho trang phục Nhật Bản truyền
là tên một tập binh pháp thư do kiếm khách Nhật Bản là Miyamoto Musashi biên soạn. Đây cũng là tác phẩm tiêu biểu của ông. Người ta cho rằng tác phẩm này được Musashi
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
thumb|Khu công nghiệp Tập Thành Quán (集成館) do Shimazu Nariakira thành lập năm 1852 tại Iso (磯), [[phiên Satsuma. Một _dị nhân quán_ (異人館) được xây dựng để làm chỗ ở cho bảy kỹ thuật
là một nghệ sĩukiyo-e Nhật Bản, nổi tiếng qua các bản in màu khắc gỗ và minh họa trên báo. Tác phẩm của ông hướng tới quá trìhh hiện đại hóa và Tây hóa thần
**Matthew Calbraith Perry** (10 tháng 4 năm 1794– 4 tháng 3 năm 1858, New York) là Phó Đề đốc của Hải quân Hoa Kỳ. Ông được biết đến trong lịch sử vì đã chỉ huy
, còn được gọi là và đôi khi là **Đại Ngu viện** (大虞院) hoặc **Đại Quảng viện** (大廣院), là một trong các thiếp được sủng ái nhất của Toyotomi Hideyoshi, sau chính thất Nene. Trong
là một cựu yoriki và là một học giả Tân Nho giáo của học phái Vương Dương Minh ở Osaka. Dù làm việc cho chính quyền, ông đã công khai chống lại chế độ Tokugawa.
là một trận đánh trong Chiến tranh Boshin thời Minh Trị Duy Tân, diễn ra vào năm 1868 tại phái Tây Bắc Nhật Bản, ngày nay là tỉnh Niigata. ## Bối cảnh Chiến tranh Boshin
Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư** là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ
nhỏ|Gia huy của [[Gia tộc Tokugawa]] là một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản. Ông là người sáng lập và cũng là vị Shōgun (Tướng Quân) đầu tiên của Mạc phủ Tokugawa,
**_Kako_** (tiếng Nhật: 加古) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong giai đoạn từ sau Đệ Nhất thế chiến đến Đệ Nhị thế chiến, là
**Thu Cẩn** (chữ Hán: 秋瑾; bính âm Hán ngữ: _Qiū Jǐn;_ tiếng Latinh: _Qiu Jin;_ Wade–Giles: _Ch'iu Chin;_ 8 tháng 11 năm 1875 – 15 tháng 7 năm 1907) bút danh là **Thu Thiên** (秋千),
, thường được gọi đơn giản là **Code Geass** là một bộ anime dài tập do hãng Sunrise tạo ra, đạo diễn Taniguchi Gorō và kịch bản của Ōkouchi Ichirō, với thiết kế nhân vật
Hình nhân mặc kiểu đồng phục của Shinsengumi (còn được gọi là _Tân Đảng_) là lực lượng cảnh sát được thành lập để trấn áp các thế lực chống đối Mạc Phủ Tokugawa, và giữ
(31/5/1835 - 20/6/1869). Là một kiếm khách và chiến lược gia đại tài trong lịch sử quân sự Nhật Bản. Với vai trò Phó cục trưởng Shinsengumi (新選組 Tân Tuyển Tổ, lực lượng cảnh sát
**Đại Áo** (chữ Hán: 大奥; おおおくŌoku) hiểu đơn giản là hậu cung của thành Edo (Tokyo, Nhật Bản ngày nay), nơi mà rất nhiều phụ nữ có quan hệ với Tướng quân (shōgun) đương kim
là những năm cuối cùng dưới thời Edo khi Mạc phủ Tokugawa sắp sụp đổ. Tiêu biểu là hàng loạt sự kiện quan trọng diễn ra từ năm 1853 đến năm 1867 khiến Nhật Bản
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**Tỏa Quốc** (tiếng Nhật: 鎖国, _Sakoku_; Hán-Việt: Tỏa quốc, nghĩa là "khóa đất nước lại") là chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong hơn hai thế kỷ, từ giữa thế kỷ 17 đến thế
**Nữ vương Yoshiko** (28 tháng 10 năm 1804 – 27 tháng 1 năm 1893) là em gái của vương tước Tsunahito thuộc nhánh Hữu Tê Xuyên cung (Arisugawa-no-miya), một trong những nhánh họ của Hoàng
nhỏ|phải|Hương khói tại lăng mộ của 47 võ sĩ không chủ ở chùa Tuyền Nhạc Tự. Câu chuyện về **bốn mươi bảy rōnin**, còn được biết dưới tên **cuộc trả thù Akō** hay là ,
**Chūshingura** (忠臣蔵 - trung thần tạng, tạm dịch: kho chuyện trung thần) là tên thường gọi của Kana-dehon Chūshingura, một tiết mục biểu diễu của thể loại kịch múa rối Jōruri (Tịnh Lưu Ly, hay
hay là những tên gọi được dùng để chỉ các cuộc xung đột quân sự giữa Mạc phủ Tokugawa và gia tộc Toyotomi diễn ra xung quanh Thành Ōsaka, bắt đầu từ tháng 12 năm
là một samurai sống vào Thời kỳ Edo trong lịch sử Nhật Bản, _daimyō_ đời thứ 3 của Phiên Sendai ở miền bắc nước Nhật trong giai đoạn 1658 - 1660, và tộc trưởng đời
thumb|right|Dejima và Vịnh Nagasaki, khoảng năm 1820. Hai tàu của Hà Lan và rất nhiều thuyền của Trung Quốc được miêu tả. thumb|right|Quang cảnh đảo Dejima nhìn từ Vịnh Nagasaki (Kawahara Keiga, 1836) thumb|Philipp Franz
là _daimyō_ nhà Hotta đời thứ năm của phiên Sakura vào thời Edo, giữ chức _rōjū_ (lão trung) trong Mạc phủ Tokugawa thời Bakumatsu, đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc đàm phán
là một trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản diễn ra vào ngày 21 tháng 10 năm 1600 (ngày 15 tháng thứ 9 niên hiệu _Khánh Trường_ thứ 5) tại Sekigahara, thuộc tỉnh
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Tokugawa Iemitsu** (Kanji: 徳川家光, kana: とくがわいえみつ, phiên âm: Đức Xuyên Gia Quang, 12 tháng 8, 1604 - 8 tháng 6, 1651), là Vị Chinh Di Đại tướng quân thứ 3 của dòng họ Tokugawa trong
là vị Thiên hoàng thứ 119 của Nhật Bản, theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Triều đại ông kéo dài từ năm 1780 đến 1817. ## Phả hệ Ông có tên thật là Morohito
nhỏ|Saito Hajime (Fujita Goro) là đội trưởng đội 3 Shinsengumi, một trong số ít những thành viên của nhóm còn sống sót sau những cuộc chiến cuối thời Mạc Phủ. ## Thời thơ ấu Saito
là một gia tộc samurai Nhật Bản, bắt nguồn từ gia tộc Fujiwara và đặc biệt đáng chú ý do sức mạnh của họ trong thời kỳ Muromachi và thời kỳ Sengoku (khoảng thế kỷ
**Thiên Chương viện** (chữ Hán: 天璋院; hepburn: Tenshōin; sinh ngày 5 tháng 2 năm 1836 — 20 tháng 11 năm 1883), cũng được biết đến với các tên gọi như **Nguyên Đốc Tử** (源篤子; Minamoto
, còn có tên gọi **Yasuda Eisai**, **Kuwahara Shūsaku**, _Shūsaku bất bại_, tên khai sinh là (6 tháng 6 năm 1829 – 3 tháng 9 năm 1862) là một kỳ thủ cờ vây chuyên nghiệp
**** là _daimyō_ đời thứ 2 của Phiên Sendai thuộc xứ Tōhoku dưới thời Edo trong lịch sử Nhật Bản. ## Tiểu sử Tadamune chào đời vào năm Khánh Trường thứ 12 (1600), có tên
thumb|right|[[Honda Tadakatsu, _fudai daimyō_ nổi tiếng thời kỳ tiền Edo]] là hạng của _daimyō_ là chư thần kế thừa của Mạc phủ Tokugawa trong thời kỳ Edo. _Fudai_ chủ yếu là tầng lớp thân thuộc
còn gọi là hay là tước hiệu của người được tôn là Hoàng đế ở Nhật Bản. Nhiều sách báo ở Việt Nam gọi là _Nhật Hoàng_ (日皇), giới truyền thông Anh ngữ gọi người
thumb|gia huy của Gia tộc Oda (emblem) là một daimyo trong thời kỳ Chiến Quốc của lịch sử Nhật Bản. Ông là người có công lớn trong việc thống nhất Nhật Bản, chấm dứt thời
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
là quan chức Mạc phủ Tokugawa cuối thời Edo. Ông là viên chức đại diện Mạc phủ với tên gọi _Daikan_ (Đại quan), phụ trách các phiên trấn thuộc Mạc phủ Tokugawa gồm xứ Izu,
là một cuộc nổi dậy tại địa điểm nay thuộc tỉnh Nagasaki ở vùng Tây Nam Nhật Bản kéo dài từ ngày 17 tháng 12 năm 1637, đến ngày 15 tháng 4 năm 1638, trong
thumb|[[Bắc Điều Chính Tử - vị phu nhân đầu tiên sử dụng danh vị Ngự đài sở.]] thumb|[[Trúc Sơn điện - Ngự đài sở đầu tiên của gia tộc Tokugawa.]] thumb|phải|[[Nhất Điều Mỹ Hạ Tử
là một gia đình daimyo hùng mạnh ở Nhật Bản. Họ là hậu duệ của Thiên hoàng Seiwa (850-880) và là một chi của gia tộc Minamoto (Seiwa Genji) qua gia tộc Nitta. Minamoto no
**_Trang Tử_**, hay còn được biết đến rộng rãi hơn trong tiếng Việt với tên gọi **_Nam Hoa kinh_**, là một tác phẩm triết học, văn học Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc (476–221 TCN)