✨Obi (khăn thắt lưng)

Obi (khăn thắt lưng)

thumb|Phía sau lưng một phụ nữ mặc kimono với khăn quấn obi ở phần thắt lưng theo kiểu tateya musubi là một loại khăn quấn ở phần thắt lưng cho trang phục Nhật Bản truyền thống, keikogi (đồng phục cho võ thuật Nhật Bản), và một phần của bộ trang phục kimono.

Obi cho kimono của nam không quá rộng, với kích cỡ lớn nhất khoảng , nhưng loại obi trang trọng cho phụ nữ có thể rộng tới và dài từ . Ngày nay, một bộ obi rộng mang tính trang trí cho phụ nữ không nhằm giữ chặt kimono; việc này được hoàn thành bởi các loại khăn quấn bên trong và dải lụa quấn bên dưới obi. Bản thân obi thường đòi hỏi việc sử dụng các vật làm cứng và ruy băng để định hình và trang trí.

Có nhiều loại obi, hầu hết là dành cho phụ nữ: loại obi rộng được làm từ vải thổ cẩm và rộng hơn, loại obi đơn giản hơn để đeo hằng ngày. Loại obi rực rỡ và nhiều màu sắc nhất thường dành cho phụ nữ trẻ chưa có chồng. Obi của phụ nữ đương đại là một phụ kiện rất nổi bật, đôi khi thậm chí còn nổi bật hơn bản thân áo choàng kimono. Một obi trang trọng loại tốt có thể có giá đắt hơn cả toàn bộ phần còn lại của bộ trang phục.

Obi được phân loại theo thiết kế, hình thức, nguyên liệu và cách sử dụng của chúng. Loại obi không trang trọng thường rộng và ngắn hơn.

Lịch sử

thumb|Một người phụ nữ Nhật Bản đang thắt obi cho một [[geisha vào đầu thập niên 1890.]] Trong thời kỳ đầu, một chiếc obi là một sợi dây hoặc một chiếc khăn quấn dạng dây băng, dài khoảng . Obi của nam và nữ lúc đó tương tự nhau. Vào đầu thế kỷ XVII, cả phụ nữ và đàn ông đều đeo một dạng obi dây băng. Vào những năm 1680, chiều dài obi của phụ nữ đã dài gấp đôi so với kích thước ban đầu. Trong những năm 1730, obi của phụ nữ rộng khoảng , và đến cuối thế kỷ XIX đã rộng khoảng . Vào thời kỳ đó, dây băng và dây buộc riêng đã đóng vai trò cần thiết để giữ cho obi cố định. Obi của nam có chiều rộng lớn nhất vào những năm 1730, vào khoảng .

Trước thời kỳ Edo, bắt đầu vào khoảng 1600, những bộ kosode của phụ nữ được thắt lại bằng một chiếc khăn rộng quấn ở hông. Cách thức đính tay áo rộng vào phần thân của trang phục sẽ có thể cản trở việc sử dụng loại obi rộng hơn. Khi tay áo của kosode bắt đầu được may dài hơn (tức là tăng chiều dài) vào đầu thời kỳ Edo, obi cũng được làm rộng hơn. Có hai lý do cho điều này: trước tiên, để đảm bảo sự cân bằng về thẩm mỹ của trang phục, tay áo dài hơn cần có một chiếc khăn quấn rộng hơn để đi kèm với chúng; thứ hai, không giống như hiện nay (nơi mà chúng chỉ là thói quen của phụ nữ chưa kết hôn), phụ nữ đã kết hôn cũng mặc bộ kimono dài tay vào những năm 1770. Việc sử dụng tay áo dài mà không để phần dưới cánh tay mở sẽ gây cản trở hoạt động rất nhiều. Phần mở dưới cánh tay này tạo không gian thậm chí cho loại obi rộng hơn nữa. Loại khăn tsuke obi với nút được thắt sẵn cũng đang trở nên phổ biến.

Cơ sở dệt Tatsumura, nằm ở Nishijin, Kyoto, ngày nay là một trung tâm sản xuất loại phụ kiện này. Được sáng lập bởi Heizo Tatsumura I vào thế kỷ XIX, cơ sở này nổi tiếng với việc tạo ra một trong số những obi sang trọng nhất. Trong số những học viên của ông phải kể đến Dōmoto Inshō, người sau này trở thành một họa sĩ. Kỹ thuật Nishijin-ori rất phức tạp và có thể có hiệu ứng ba chiều, có thể có giá trị lên đến 1 triệu yên.

"Học viện Kimono" được sáng lập bởi Kazuko Hattori vào thế kỷ XX, nơi đây có dạy cách làm thế nào để thắt một obi và đeo nó đúng cách.

Obi của nữ

thumb|right|Các phần của một obi cho phụ nữ:
1. tsuke/tsukuri/kantan obi
2. hanhaba obi
3. Nagoya obi
4. Fukuro obi
5. Maru obi Loại obi rộng của phụ nữ được xếp làm đôi khi đeo, có chiều rộng khoảng đến . Một obi khi thắt được coi là thanh lịch khi mà chiều rộng bản gấp hài hòa với kích thước cơ thể của người sử dụng. Thông thường, tỉ lệ lý tưởng của phần này là bằng khoảng một phần mười chiều cao của người phụ nữ. Chiều rộng toàn bộ của obi chỉ được trình bày trong nút thắt trang trí, musubi.

Một obi dành cho nữ được đeo với một nút thắt musubi lộng lẫy. Có tổng cộng mười cách để thắt một chiếc obi, và các nút thắt khác nhau phù hợp với những dịp khác nhau và bộ kimono khác nhau.

Có nhiều loại obi dành cho phụ nữ, và việc sử dụng chúng được quy định bởi nhiều nguyên tắc bất thành văn, không khác gì những quy tắc liên quan đến bản thân bộ kimono. Một số loại obi được sử dụng với một số loại kimono; obi của phụ nữ kết hôn và chưa kết hôn được thắt với nhiều cách khác nhau. Thường thì obi ảnh hưởng đến độ trang trọng và lộng lẫy của toàn bộ trang phục kimono: cùng một bộ kimono có thể mặc trong những tình huống rất khác nhau tùy thuộc vào loại obi mang với nó.

Các loại obi dành cho nữ

thumb|Nagoya obi, loại phổ biến nhất cho kimono trên khắp Nhật Bản thumb|right|Tsuke obi ngắn hơn nhiều so với các loại obi khác. thumb|right|Phần vòng cung riêng biệt của một chiếc tsuke obi được đính vào bằng móc dây. thumb|right|Cô gái mặc một bộ yukata. Một hiệu ứng nổi bật được tạo ra bằng cách gấp phần obi đảo ngược để lộ mặt dưới có tính tương phản.

  • là một loại maru obi rất dài được đeo bởi maiko. Một darari obi của maiko có dấu hiệu kamon của người chủ sở hữu okiya ở cuối vạt khăn. Một darari obi có thể dài tới .
  • là một loại kém trang trọng về đẳng cấp hơn maru obi và là loại obi trang trọng nhất được thực sự sử dụng ngày nay. Nó được làm bằng cách xếp làm đôi miếng vải hoặc may hai miếng vải vào nhau. Nếu sử dụng hai miếng vải, loại vải dùng cho mặt sau của obi có thể rẻ hơn và mặt trước có thể may bằng loại vải như thổ cẩm. Không tính các trang phục kết hôn, fukuro obi đã thay thế maru obi nặng nề như loại obi được sử dụng trong lễ nghi và dịp kỉ niệm. Fukuro obi thường được làm phần không lộ ra khi đeo bằng loại lụa trơn, mỏng và mềm hơn.
  • hoặc là loại obi được may làm hai ở phần bắt đầu nút thắt taiko. Phần quấn xung quanh cơ thể được xếp lại khi bắt đầu. Loại fukuro Nagoya obi được dùng để tạo ra loại taiko musubi hai lớp trang trọng hơn, gọi là nijuudaiko musubi. Nó dài khoảng . Để dùng với yukata, loại hanhaba obi đảo ngược khá phổ biến: chúng có thể được gấp lại và xoắn theo nhiều cách để tạo ra các hiệu ứng màu sắc. Một chūya obi ("ngày và đêm") có một mặt màu tối, trang trí nhẹ nhàng và một mặt khác, rực rỡ hơn và vui tươi hơn. Bằng cách này, loại obi này có thể đeo được trong cả cuộc sống thường ngày và cho lễ hội. Loại obi này rộng khoảng và dài khoảng tới .
  • là một loại obi rất bình dân được làm từ vải mềm, mỏng, và đôi khi nó được coi là hoàn toàn không phù hợp với phụ nữ. Ngày nay, các bé gái và phụ nữ có thể đeo heko obi với những loại kimono hiện đại không trang trọng và yukata. Một heko obi cho người trưởng thành có kích cỡ bằng với kích cỡ thông thường của obi, rộng khoảng tới và dài khoảng . loại obi làm từ loại chất liệu này cũng được gọi là . Hitoe obi có thể đeo với kimono thường ngày hoặc yukata.
    Tính trang trọng và nổi bật của một chiếc Nagoya obi phụ thuộc vào vật liệu của nó, giống như các loại obi khác. Khi mà Nagoya obi ban đầu được sử dụng như phục trang thường ngày, nó không bao giờ có thể là một phần của một bộ trang phục nghi lễ thực sự, nhưng một Nagoya obi được làm từ loại thổ cẩm thượng hạng có thể được chấp nhận như một phục trang bán nghi lễ.
    Thuật ngữ Nagoya obi cũng có thể đề cập tới một loại obi cùng tên khác, được sử dụng nhiều thế kỷ trước đó. Loại Nagoya obi này có cấu trúc giống như một băng đeo nhỏ. Tsuke obi thông thường rất bình dân Những ngày này, một người phụ nữ trẻ chưa kết hôn theo truyền thống sẽ để phần obiage lộ ra ở bên dưới đằng trước obi. Một người phụ nữ đã kết hôn sẽ giấu nó sâu hơn và chỉ cho phép nó lộ ra một khoảng nhỏ. Obiage có thể được coi như một phần trang phục lót cho kimono, vì vậy việc để lộ một phần rộng thể hiện một chút khêu gợi trong đó.
  • là một phụ kiện trang trí nhỏ được gắn lên trên obijime. Nó là một miếng bìa mỏng được phủ vải và được đặt giữa các lớp obi khi đeo obi vào. Nam giới trưởng thành chỉ đeo heko obi ở nhà, It is worn in the simple kai-no-kuchi knot.

Phụ kiện

Một chiếc netsuke là một vật trang trí treo trên obi dành cho nam giới.

Obi cho trẻ em

thumb|right|Một cô bé mặc kimono. Một chiếc obi mềm đơn giản được thắt quanh eo. Trẻ em được mặc kimono đặc biệt vào lễ hội Shichi-Go-San (Bảy-năm-ba), dành cho các bé gái lên ba và bảy tuổi, và các bé trai lên năm tuổi. Các bộ trang phục kimono của trẻ em giống với những bộ của người lớn và các bộ phận của chúng về cơ bản là các phiên bản thu nhỏ từ loại của người trưởng thành. Các bé nhỏ tuổi nhất sẽ đeo các loại obi mềm giống như khăn quàng cổ.

Các loại obi dành cho trẻ em

  • là một loại obi dành cho nam. Nó được đặt tên theo độ dài của nó, vào khoảng ba . Loại obi này đôi khi được gọi đơn giản là . Trong thời kỳ Edo, loại obi dành cho các bộ kimono giống như yukata tương đối phổ biến trong dân chúng vì tính dễ sử dụng của nó. Theo một số lý thuyết, sanjaku obi bắt nguồn từ một chiếc khăn quàng cổ có cùng chiều dài, được xếp lại và sử dụng như là một chiếc khăn quấn ở thắt lưng. Một chiếc sanjaku obi thường có hình dạng giống như kaku obi, hẹp và có các đoạn thêu ngắn. Nó thường được may từ các loại vải mềm như cotton. Bởi chiều dài hạn chế, sanjaku obi được thắt theo nút koma musubi, giống như một nút kép.
  • là vật phẩm hữu dụng để đeo cùng trong thời đại của các bộ kimono chùng sát đất, từng được sử dụng để buộc cố định độ dài quá mức của trang phục khi đi ra ngoài. Ngày nay, chức năng duy nhất của shigoki obi là dùng để trang trí.
  • Tsuke obi là một loại obi phổ biến được sử dụng cho trẻ em vì dễ sử dụng, thậm chí còn có cả loại tsuke obi trang trọng cho trẻ em.
  • là một nút thắt mang tính trang trí cao và phức tạp, giống với một đoá hoa diên vĩ. Nó được coi là phù hợp với phụ nữ trẻ trong các tình huống và các bữa tiệc không trang trọng. Do tính phức tạp và sự nổi bật của nó, nút thắt này nên được đeo với các bộ kimono và obi dịu nhẹ hơn, trong đó các màu đơn sắc được ưa thích hơn.
  • là một nút thắt hiện đại lộ rõ ra phía ngoài. Nó phù hợp với phụ nữ trẻ và có thể mang cho các bữa tiệc không quá trang trọng. Bởi sự phức tạp của nút thắt, một obi nhiều màu hoặc được thêu hoa văn mạnh mẽ không nên được sử dụng. Các hoa văn của bộ kimono phải khớp với nút thắt biểu trưng cho một loài hoa phương Tây.
  • là một phiên bản của bunko musubi, nút thắt sử dụng hanhaba obi. Hầu hết các loại obi thắt sẵn (tsuke obi) đều được làm với nút thắt bướm.
  • Là một nút ngày nay chỉ được sử dụng bởi maiko, vũ công và các diễn viên kabuki. Nó có thể dễ dàng phân biệt bằng "chiếc đuôi" dài treo ở mặt sau. Trong quá khứ, các quý tộc
  • là, như tên gọi của nó cho thấy, một phiên bản của loại taiko musubi phổ biến, được đeo với loại fukuro obi trang trọng. Fukuro obi có chiều dài lớn hơn loại được sử dụng phổ biến hơn là Nagoya obi, vì vậy obi phải được gấp đôi lại trong suốt lúc thắt nút.
  • giống như một cây cung lớn và là một trong những loại musubi đơn giản nhất đeo với furisode. Theo tác giả về nghệ thuật kitsuke Yamanaka Norio, nó là nút rất thích hợp để được sử dụng với honburisode, là furisode với tay áo đầy đủ độ dài.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Phía sau lưng một phụ nữ mặc _kimono_ với khăn quấn _obi_ ở phần thắt lưng theo kiểu _tateya musubi_ là một loại khăn quấn ở phần thắt lưng cho trang phục Nhật Bản truyền
phải|nhỏ|Obi cho budō. Những màu sắc từ màu vàng nâu tương ứng với các cấp độ [[judo kyū từ thứ 9 đến thứ nhất.]] phải|nhỏ|Một cách thắt obi được sử dụng trong [[judo, aikido và
thumb|Kimono thời hiện đại **Kimono** (Kanji: 着物; Kana: きもの; Hán Việt: _"Trước vật"_, nghĩa là _"đồ để mặc"_) hoặc còn gọi là **Wafuku** (和服; わふく; Hán Việt: _"Hòa phục"_, nghĩa là _"y phục Đại Hoà"_),
nhỏ|_Netsuke_ hình một chú chó do 虎渓 (Kokei) làm nhỏ|phải|Một người đàn ông đeo một cái _[[inro_ (hộp đựng nhỏ) gắn vào thắt lưng chiếc _hakama_ bằng _netsuke_.]] **_Netsuke_** (tiếng Nhật: 根付) là những đồ
nhỏ|phải|Hakama của [[miko]] nhỏ|phải|Hakama của môn [[Aikido đang được gấp lại]] là một loại trang phục truyền thống của người Nhật Bản. Những loại quần ống cụt đã được sử dụng ở triều đình Trung
**_Star Wars: Thần lực thức tỉnh_** (tên gốc tiếng Anh: **_Star Wars: The Force Awakens_**, hoặc **_Star Wars: Episode VII – The Force Awakens_**) là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại sử thi
thumb|Một số nhân vật chính Dưới đây là danh sách nhân vật trong manga và anime _Thanh gươm diệt quỷ_ của tác giả Gotōge Koyoharu. ## Nhân vật chính ### Kamado Tanjirō : là người
**_Chiến tranh giữa các vì sao: Tập 4 – Niềm hi vọng mới_** (tựa gốc tiếng Anh ban đầu: **_Star Wars_**, sau này được đổi tựa đề là **_Star Wars: Episode IV – A New
**_Chiến tranh giữa các vì sao_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Star Wars_**) là loạt tác phẩm hư cấu sử thi không gian của Mỹ sáng tạo bởi George Lucas, tập trung chủ yếu vào một
**Darth Vader** là một nhân vật hư cấu trong tác phẩm _Star Wars_ , xuất hiện như là một trong những nhân vật phản diện chính trong 3 bộ phim gốc và là nhân vật
**_Đế chế phản công_**, còn được gọi là **_Chiến tranh giữa các vì sao: Tập V – Đế chế phản công** (_tựa Tiếng Anh: _**Star Wars: Episode V – The Empire Strikes Back**)_, là một
**_Luke Skywalker_** là một nhân vật hư cấu và là nhân vật chính trong bộ ba phim gốc của loạt sử thi không gian _Star Wars_ do George Lucas sáng tạo. Nhân vật được thể
nhỏ|phải|Dưới chân núi rặng Altai **Dãy núi Altay** hay **dãy núi Altai** hay **rặng Altai** là một dãy núi ở trung tâm châu Á, nằm trên khu vực biên giới Nga, Trung Quốc, Mông Cổ
**_Star Wars: The Clone Wars_** là bộ phim hoạt hình 3D năm 2008 của Mỹ thể loại khoa học viễn tưởng-sử thi không gian được đặt trong vũ trụ _Star Wars_, dẫn đến loạt truyền
Theo chiều kim đồng hồ, từ trên cùng bên trái: [[Tòa án Hình sự Quốc tế phát lệnh bắt giữ Tổng thống Nga Vladimir Putin và Maria Lvova-Belova; Tàu lặn Titan phát nổ trong chuyến
**Rey** là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong _Star Wars_, thể hiện bởi diễn viên nữ người Anh Daisy Ridley. Xuất hiện lần đầu tiên trong Star Wars: The Force Awakens (2015), Rey
**Carlo Ancelotti** (; sinh ngày 10 tháng 6 năm 1959 tại Reggiolo) hay biệt danh _Carletto_, là một cựu cầu thủ bóng đá người Ý và hiện là huấn luyện viên của đội tuyển Brasil.
**Novosibirsk** (phiên âm tiếng Việt: **Nô-vô-xi-biếc**; , ) là thành phố lớn thứ ba của Nga về dân số, sau Moskva và Saint Petersburg, xếp thứ 13 về diện tích và là thành phố lớn
là tên tập truyện phát hành năm 1908, gồm mười truyện ngắn xoay quanh chủ đề mộng, của nhà văn người Nhật Natsume Sōseki. Câu trở nên nổi tiếng từ tập truyện này. ## Sơ