✨Sakoku

Sakoku

Tỏa Quốc (tiếng Nhật: 鎖国, Sakoku; Hán-Việt: Tỏa quốc, nghĩa là "khóa đất nước lại") là chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong hơn hai thế kỷ, từ giữa thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Theo lệ Sakoku thì không người nước ngoài nào được vào Nhật Bản và ngược lại người Nhật cũng không được rời xứ sở nếu không được triều đình cho phép; kẻ vi phạm phải chịu án tử hình. Chính sách này được Mạc phủ Tokugawa ban bố dưới thời Tokugawa Iemitsu qua một số chỉ dụ từ năm 1633 đến năm 1639, sau đó được duy trì cho đến năm 1853 khi phó đề đốc Hải quân Hoa Kỳ Matthew Perry đến Nhật Bản và ép triều đình Nhật Bản phải thông thương trước áp lực quân sự. Lệ sakoku cấm người dân Nhật Bản ra nước ngoài vẫn còn hiệu lực cho đến thời Minh Trị Duy tân (1868) mới bắt đầu được nới lỏng và cuối cùng là bãi bỏ.

Thuật ngữ Tỏa Quốc được rút từ tác phẩm Tỏa Quốc Luận (鎖国論) (Sakoku-ron) của Shikizu Tadao (志筑 忠雄) ("Chí Trúc Trung Hùng") soạn năm 1801. Trước đó Shikizu đã dịch tác phẩm thế kỷ 17 của nhà du hành người Đức Engelbert Kaempfer khi viết về Nhật Bản. Kaempfer nhận xét rằng chính sách kaikin (海禁), hay "hải cấm" của triều đình Nhật Bản đã khóa kín quốc gia đó nên Shikizu mượn ý niệm đó mà đặt ra sakoku.

Thuyền buồm Trung Hoa ở Nhật Bản vào đầu thời Tỏa quốc (tranh khắc gỗ Nhật Bản 1644-1648). Đúng ra Nhật Bản không hẳn biệt lập dưới chính sách Tỏa quốc vì vẫn có ít nhiều giao lưu với các nước lân bang. Việc nghiêm cấm đối ngoại áp dụng nghiêm ngặt nhất với hai ngành ngoại thương và ngoại giao để hạn chế các thế lực ngoại quốc. Bằng chỉ định phiên chúa địa phương nào được quyền giao tiếp với ngoại quốc, phiên chúa nào không, chính quyền trung ương có thể kiểm soát một cách chặt chẽ mà không cần trực tiếp canh gác mọi cửa biển.

Mạc phủ cho phép:

Người Hà Lan là người Âu châu duy nhất được đặt chân lên đất Nhật Bản. Thương điếm chỉ được đặt ở Dejima (Nagasaki)

Người Trung Hoa cũng phải qua ngả Nagasaki để có thể được bước chân vào Nhật Bản

Nhà Lý Triều Tiên thì có chính quyền trên đảo Tsushima làm trung gian

Các bộ tộc người Ainu thì phải thông Chính quyền Matsumae ở Hokkaidō

Vương quốc Ryūkyū thì có phiên Satsuma đảm trách

Thương đoàn ngoại quốc, ngoài việc giao dịch với các phiên chúa địa phương còn phải gửi tặng phẩm đến dinh phủ của Mạc phủ tại Edo. Hành trình của sứ đoàn ngoại quốc lên tận Edo cũng là dịp thần dân Nhật Bản thấy thoáng qua nét sinh hoạt, trang phục của người nước ngoài.

Buôn bán thời Tỏa Quốc

Nhật Bản lúc bấy giờ buôn bán với năm thực thể khác nhau, thông qua 4 "cửa khẩu". Qua phiên Matsumae ở Ezo (tức Hokkaido) họ buôn bán với người Ainu. Qua gia tộc đại danh Sō ở Tsushima (Đối Mã), họ có quan hệ với nhà Triều Tiên. Công ty Đông Ấn Hà Lan được cho phép buôn bán ở Nagasaki, cùng với các thương nhân người Hoa, những người cũng buôn bán với Vương quốc Ryukyu (Lưu Cầu), một vương triều bán độc lập trong gần hết thời kỳ Edo, và bị gia tộc Shimazu của phiên bang Satsuma kiểm soát. Tashiro Kazui đã chỉ ra rằng buôn bán giữa Nhật Bản và các thực thể này được chia làm hai loại: Nhóm A gồm Trung Quốc và Nhật Bản, "quan hệ với họ dưới sự giám sát trực tiếp của Mạc phủ ở Nagasaki" và nhóm B, đại diện là Vương quốc Triều Tiên và Vương quốc Ryukyu, "họ buôn bán với phiên Đối Mã (gia tộc Sō) và Satsuma (gia tộc Shimazu)."

Hai nhóm khác nhau này phản ánh về cơ bản kiểu buôn bán nhập khẩu và xuất khẩu. Xuất khẩu từ Nhật Bản đến Triều Tiên và Vương quốc Ryukyu, cuối cùng được mang từ những vùng đất này đến Trung Quốc. Ở quần đảo Ryukyu và Triều Tiên, các gia tộc chịu trách nhiệm buôn bán với Triều Tiên và Vương quốc Ryukyu xây dựng các thương điếm ở bên ngoài lãnh thổ Nhật Bản—nơi thương mại thực sự diễn ra. Vì cần người Nhật đi đến các thương điếm, việc buôn bán này giống như xuất khẩu, với người Nhật có quan hệ thường xuyên với thương nhân nước ngoài ở vùng đất có đặc quyền về cơ bản. Buôn bán với thương nhân Trung Quốc và Hà Lan ở Nagasaki diễn ra trên một hòn đảo gọi là Dejima, tách biệt khỏi thành phố bởi một eo biển nhỏ; người nước ngoài không thể vào nước Nhật từ Dejima, và người Nhật cũng không vào được Dejima mà không có quyền hoặc giấy phép đặc biệt.

Thuật ngữ

Buôn bán thực ra vẫn phát đạt trong thời kỳ này, và mặc dù ngoại giao và thương mại bị giới hạn ở một số cảng nào đó, đất nước Nhật không hề đóng cửa hoàn toàn. Thực tế là, khi Mạc phủ trục xuất người Bồ Đào Nha, họ đồng thời cũng tiến thành thương thảo với các đại diện người Hà Lan và Triều Tiên để đảm bảo kim ngạch thương mại nói chung của đất nước không bị ảnh hưởng . Do đó, giới học giả vài thập kỷ gần đây ngày càng thường gọi chính sách đối ngoại thời kỳ này không phải Tỏa Quốc, với ý nghĩa là đất nước hoàn toàn biệt lập, tách biệt và đóng cửa, mà họ dùng thuật ngữ kaikin (海禁, "hải cấm") được sử dụng trong các thư tịch thời kỳ đó, và xuất phát từ định nghĩa Trung Quốc tương đương hai jin.

Lý do cơ bản

Chuyên luận Nhật Bản đầu tiên về khoa giải phẫu học phương Tây, xuất bản vào năm 1774. Đó là một ví dụ về "[[Rangaku" tại Bảo tàng Khoa học Quốc gia Tokyo.]] Người ta nói chung thường coi rằng Mạc phủ áp đặt và thực thi chính sách Tỏa Quốc để loại bỏ thế lực tôn giáo và thực dân trước hết của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, được cho là tạo ra sự đe dọa với sự ổn định của Mạc phủ và nền hòa bình của quần đảo. Số lượng người Nhật cải sang đạo Công giáo ngày càng tăng ở phía Nam của Nhật Bản (chủ yếu là Kyūshū) được nhìn nhận như một mối đe dọa quan trọng.

Thiên hoàng rất lo ngại khi ông biết đến việc người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã bình định Tân Thế giới như thế nào, và nghĩ rằng Nhật Bản sẽ sớm bị đánh chiếm, trở thành một trong các thuộc địa của họ.

Các thương nhân người Anh và người Hà Lan theo đạo Tin lành đổ thêm dầu vào lửa khi buộc tội các nhà truyền đạo người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha truyền giáo một cách có hệ thống, như là một phần của chính sách cai trị về văn hóa và thực dân hóa các nước Á Châu. Số lượng người Công giáo ở Nhật Bản tăng nhanh vì nỗ lực của các nhà truyền giáo, ví dụ như Francis Xavier và các đại danh cải đạo. Lý do trực tiếp dẫn đến việc áp đặt chính sách Tỏa Quốc là cuộc nổi loạn Shimabara kéo dài từ năm 1637 đến năm 1638, một cuộc nổi dậy của hơn 40.000 nông dân, phần lớn theo Công giáo. Sau việc này, Mạc phủ buộc tội các nhà truyền giáo đã xúi giục cuộc nổi loạn, trục xuất họ ra khỏi đất nước, và nghiêm cấm tôn giáo này bằng án tử hình. Những người Công giáo Nhật Bản còn lại, phần lớn ở Nagasaki, tập hợp lại thành một cộng đồng ngầm và được gọi là Kakure Kirishitan.

Tất các mối liên hệ với thế giới bên ngoài bị Mạc phủ, và các phiên có nhiệm vụ giao thương (Đối Mã, Matsumae, and Satsuma) bị hạn chế nghiêm ngặt. Thương nhân Hà Lan được cho phép tiếp tục buôn bán ở Nhật Bản và phải đồng ý không dính líu vào các hoạt động truyền giáo. Ngày nay, tỉ lệ người Công giáo trong dân số Nhật Bản (1%) vẫn ít hơn nhiều so với các nước Đông Á khác như Trung Quốc (5%), Hàn Quốc (7.9%), Việt Nam (8%) và Philippines (hơn 80%).

Chính sách Tỏa Quốc cũng là một cách kiểm soát thương mại giữa Nhật Bản và các quốc gia khác, cũng như khẳng định vị thế mới của Nhật trong khu vực – việc giúp Nhật Bản thoát khỏi quan hệ cống nạp đã tồn tại giữa nó và Trung Quốc qua nhiều thế kỷ trước đây. Việc chống lại Tỏa Quốc từ trong nội bộ Nhật Bản trong thế kỷ 18 không mang lại kết quả. Sau đó, chính sách Tỏa Quốc là chính sách bảo vệ chính với việc suy kiệt tài nguyên thiên nhiên ở Nhật Bản – ví dụ như bạc và đồng – ra thế giới bên ngoài. Tuy vậy, trong khi xuất khẩu bạc qua Nagasaki bị Mạc phủ kiểm soát cho đến khi dừng mọi hoạt động xuất khẩu, việc xuất khẩu bạc qua Vương quốc Triều Tiên vẫn tiếp tục với số lượng lớn.: : Năm 1797, thuyền trưởng người Mĩ, William Robert Stewart, được người Hà Lan ủy nhiệm từ Batavia, đưa con tàu Eliza of New York đến Nagasaki, Japan, với hàng hóa của Hà Lan. : Năm 1803, William Robert Stewart trở lại trên con tàu "Hoàng đế Nhật Bản" (chiếc "Eliza of New York" bị đánh cắp và đổi tên), tiến vào cảng Nagasaki và cố gắng vô ích trong việc buôn bán qua người Hà Lan ở Dejima. :* Một thuyền trưởng người Mĩ khác, John Derby của Salem, cũng không mở cửa Nhật Bản để buôn bán thuốc phiện được.

  • Năm 1804, một công sứ Nga tên là Nikolai Rezanov, đến Nagasaki, to yêu cầu trao đổi thương mại. Mạc phủ đã từ chối lời yêu cầu, dẫn đến việc người Nga tấn công Sakhalin và quần đảo Kurol trong 3 năm sau đó, thúc đẩy việc Mạc phủ xây dựng tuyến phòng thủ ở Ezo.
  • Năm 1808, tàu khu trục nhỏ Anh HMS Phaeton, đột kích tàu Hà Lan ở Thái Bình Dương, đến Nagasaki dưới cờ Hà Lan, yêu cầu và nhận được tiếp viện nhờ đe dọa vũ lực.
  • Năm 1811, Đại úy Hải quân Nga Vasily Golovnin đặt chân lên đảo Kunashiri, và bị Mạc phủ bắt giữ và bị giam 2 năm. Bức vẽ Nhật Bản về Morrison, buông neo trước [[Uraga năm 1837.]]
  • Năm 1825, theo đề xuất của Takahashi Kageyasu, Mạc phủ ban hành "Lệnh đuổi các thuyền nước ngoài" (Ikokusen uchiharairei, còn được gọi là "Ninen nashi", hay luật "Không suy tính"), ra lệnh cho chính quyền dọc bờ biển bắt giữ hoặc giết người nước ngoài đặt chân lên bờ biển.
  • Năm 1830, quần đảo Bonin, được Nhật Bản tuyên bố chủ quyền nhưng không có người ở, được một người Mĩ tên là Nathaniel Savory đến nghỉ chân, người đặt chân lên đảo Chichijima và thành lập thuộc địa đầu tiên ở đó.
  • Năm 1837, một thương gia người Mĩ từ Quảng Châu, tên là Charles W. King tìm thấy một cơ hội để mở cửa buôn bán bằng cách cố đưa về Nhật Bản 2 thủy thủ người Nhật (trong số họ có Otokichi), những người đã bị đắm tàu vài năm trước đó và dạt vào bờ biển Oregon. Ông đến thủy đạo Uraga bằng tàu Morrison, một tàu buôn Hoa Kỳ không vũ trang. Con tàu bị bắn vài lần, và cuối cùng, không thể dong buồm trở về.
  • Năm 1842, sau tin Trung Quốc thất trận trong Chiến tranh Nha phiến và sự chỉ trích ở trong nước sau sự kiện Morisson, Bakufu trả lời thuận ý các yêu cầu của nước ngoài về quyền được tiếp tế ở Nhật Bản bằng cách đình chỉ lệnh xử tử người nước ngoài và áp dụng "Lệnh tiếp tế gỗ và nước" (Shinsui kyuyorei). Tàu [[USS Columbus (1819)|USS Columbus và một thủy thủ người Mĩ ở vịnh Edo năm 1846, từ sứ mệnh thất bại của James Biddle, được nghệ sĩ Nhật Bản vẽ lại.]]
  • Năm 1844, một hải đoàn người Pháp của thuyền trưởng Fornier-Duplan đến Okinawa ngày 28 tháng 4 năm 1844 để cố gắng buôn bán. Thương mại bị từ chối, nhưng Cha Forcade bị bỏ lại cùng một người phiên dịch.
  • Năm 1845, tàu săn cá voi Manhattan (1843) cứu thoát 22 thủy thủ Nhật Bản bị đắm tàu. Thuyền trưởng Mercator Cooper được cho phép vào cảng Edo, ông ở lại 4 ngày và gặp Thủ hộ Edo và vài quan lớn đại diện cho Thiên hoàng. Họ được tặng vài món quà và được trở về mà không bị làm phiền, nhưng họ nói rằng không bao giờ được trở lại.
  • Ngày 20 tháng 7 năm 1846, Trung tá Hải quân James Biddle, được chính phủ Hoa Kỳ cử đi mở cửa thương mại, thả neo ở vịnh Tokyo với 2 tàu, bao gồm 1 tàu chiến tranh trang bị 72 khẩu đại pháo, nhưng yêu cầu một hiệp định thương mại vẫn không thành công.
  • Ngày 24 tháng 7 năm 1846, Đô đốc người Pháp Cécille đến Nagasaki, nhưng Cécille đã thất bại trong việc đàm phán và vẫn bị từ chối cho phép đổ bộ. Ông đi cùng với hai cha xứ đã học tiếng Nhật ở Okinawa: cha Forcade và cha Ko.
  • Năm 1848, Người nửa Scotland-nửa Chinook Ranald MacDonald giả vờ bị đắm tàu ở đảo Rishiri để có thể vào được Nhật Bản. Ông được gửi đến Nagasaki, ông ở lại đó 10 tháng và trở thành thầy giáo dạy tiếng Anh đầu tiên ở Nhật Bản. Khi ông trở về Hoa Kỳ, MacDonald viết một bản tuyên bố gửi đến Quốc hội Hoa Kỳ, nói rằng xã hội Nhật Bản có trật tự tốt, người Nhật ứng xử tốt và có trình độ cao.
  • Năm 1848, thuyền trưởng James Glynn đến Nagasaki, cuối cùng cũng dẫn đến việc thương thảo thành công đầu tiên một người Mĩ với "đất nước đóng cửa" Nhật Bản. James Glynn đề xuất với Quốc hội Hoa Kỳ rằng đàm phán để mở cửa Nhật Bản nên được hỗ trợ bằng phô trương sức mạnh, do đó dọn đường cho cuộc viễn chinh của Perry.
  • Năm 1849, Tàu HMS Mariner của Hải quân Hoàng gia Anh tiến vào cảng Uraga để tiến hành đo đạc về địa hình. Trên tàu là người sống sót sau vụ đắm tàu Otokichi, với vai trò là thông dịch viên. Để tránh xảy ra phiền nhiễu với chính quyền Nhật Bản, ông cải trang làm người Hoa, và nói rằng ông đã học tiếng Nhật từ cha mình, phịa ra rằng ông là một thương nhân từng làm việc ở Nagasaki.
  • Năm 1853, Sứ đoàn Nga của Yevfimy Putyatin đến Nagasaki (ngày 12 tháng 8 năm 1853). Sứ đoàn giới thiệu động cơ hơi nước, dẫn đến nỗ lực đầu tiên được ghi lại để sản xuất động cơ hoi nước ở Nhật Bản, của Hisashige Tanaka năm 1853.

Tranh vẽ năm 1854 của Nhật Bản liên quan đến chuyến viếng thăm của Perry. Những nỗ lực bất thành này tiếp tục, cho đến khi, vào ngày 08 tháng 7 năm 1853, Phó đề đốc Matthew Perry của Hải quân Hoa Kỳ với 4 tàu chiến: Mississippi, Plymouth, Saratoga, và Susquehanna tiến vào cảng Edo (Tokyo) và thể hiện sức mạnh đầy sự hăm dọa từ các con tàu của ông với súng Paixhans. Ông yêu cầu Nhật Bản mở cửa thông thương với phương Tây. Những con tàu này được gọi là kurofune (hắc thuyền).

Chấm dứt bế quan tỏa cảng

Năm sau đó, Hiệp ước Kanagawa (31 tháng 3 năm 1854), Perry trở về với bảy con tàu và ép Shogun ký "Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị", thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ.

Từ năm 1852 đến năm 1855, Đô đốc Yevfimy Putyatin của Hải quân Nga đã có vài cố gắng để giành được các điều khoản buôn bán thuận lợi với nước Nga từ Shogun. Tháng 6 năm 1853, ông mang đến vịnh Nagasaki bức thư từ Bộ trưởng Ngoại giao Karl Nesselrode và giới thiệu với Hisashige Tanaka một máy hơi nước, có lẽ là chiếc đầu tiên được thấy ở Nhật Bản. Nỗ lực của ông cao nhất là Điều ước Shimoda tháng 2 năm 1855.

Trong vòng 5 năm, Nhật Bản ký các điều ước tương tự với các nước phương Tây khác. Điều ước Harris ký với Hoa Kỳ ngày 29 tháng 7 năm 1858. Những "Điều ước thời Ansei" được đông đảo giới trí thức Nhật Bản coi là bất bình đẳng, đã bị áp đặt vào Nhật Bản bằng con đường ngoại giao tàu chiến, và là một dấu hiệu của tham vọng của phương Tây sáp nhập Nhật Bản như đã làm với phần lớn lục địa. Trong các giới hạn, họ cho phép các nước phương Tây kiểm soát một cách lập lờ thuế quan nhập khẩu và đặc quyền ngoại giao với mọi người nước ngoài. Chúng sẽ vẫn là điểm mấu chốt trong quan hệ của Nhật Bản với phương Tây cho đến đầu thế kỷ 20.

Sứ đoàn đến phương Tây

nhỏ|Con trai của Nadar, chụp ảnh với các thành viên của Phái bộ Nhật Bản thứ hai đến châu Âu năm 1863. [[Nadar (nhiếp ảnh gia)|Nadar chụp.]] Vài phái bộ được Mạc phủ gửi ra nước ngoài, để học tập nền văn mình phương Tây, đàm phán lại các điều ước, và hoãn việc mở cửa các thành phố và bến cảng cho ngoại thương.

Một phái bộ Nhật Bản đến Hoa Kỳ được cử đi năm 1860, trên tàu Kanrin Maru. Một phái bộ đến châu Âu được cử đi năm 1862, và một phái bộ thứ hai đến châu Âu năm 1863. Nhật Bản cũng cử một đại diện và tham dự Hội chợ Thế giới 1867 ở Paris.

Các phái bộ khác, riêng biệt với các phái bộ do cả Mạc phủ lẫn đích thân Thiên hoàng Hiếu Minh cử sang châu Âu, ví dụ như Chōshū ngũ kiệt của phiên Choshu sang Luân Đôn, và các phái bộ của phiên Satsuma.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tỏa Quốc** (tiếng Nhật: 鎖国, _Sakoku_; Hán-Việt: Tỏa quốc, nghĩa là "khóa đất nước lại") là chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong hơn hai thế kỷ, từ giữa thế kỷ 17 đến thế
**Tokugawa Iemitsu** (Kanji: 徳川家光, kana: とくがわいえみつ, phiên âm: Đức Xuyên Gia Quang, 12 tháng 8, 1604 - 8 tháng 6, 1651), là Vị Chinh Di Đại tướng quân thứ 3 của dòng họ Tokugawa trong
Ngày tháng chuyến đi của Hasekura Tsunenaga (1571 – 1622), theo các tài liệu châu Âu còn được đọc là **Faxecura Rocuyemon** phiên âm từ tiếng Nhật đương thời) là một võ sĩ samurai người
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
là vị Thiên hoàng thứ 113 của Nhật Bản, theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Đông Sơn Thiên hoàng trị vì từ năm 1687 cho đến năm 1709. ## Thân thế Trước khi Higashiyama
nhỏ|Kính hiển vi được người Nhật mô tả trong quyển sách "Những câu chuyện về người Hà Lan" (xuất bản năm 1787). **Rangaku** (trong tiếng Nhật có nghĩa là **Hà Lan học**, hay gọi tắt
nhỏ|373x373px| _[[Vườn mơ ở Kameido_ (1857), một trong những bản họa nổi tiếng nhất thuộc bộ tác phẩm _Trăm danh thắng Edo_ của Utagawa Hiroshige. ]] là một bộ tác phẩm in mộc bản, được
thumb|Sự kiện Namamugi được mô tả trong một [[bản in khắc gỗ của Nhật Bản vào thế kỷ 19 với Charles Lennox Richardson ở trung tâm hiện trường.]] , còn gọi là **biến cố Kanagawa**
là _daimyō_ nhà Hotta đời thứ năm của phiên Sakura vào thời Edo, giữ chức _rōjū_ (lão trung) trong Mạc phủ Tokugawa thời Bakumatsu, đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc đàm phán
thumb|_Tranh minh họa tàu _Morrison_ của Nhật Bản, neo đậu phía trước Uraga năm 1837._ năm 1837 xảy ra khi một tàu buôn của Mỹ mang tên _Morrison_ do **Charles W. King** cầm lái, bị
là một trong những nhà tư tưởng lớn nhất của Nhật Bản cận đại. Ông được xem là người có công mở đầu phong trào canh tân nước Nhật, cổ động dân chúng trút bỏ
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
, còn gọi là **thời kỳ Tokugawa** (徳川時代 _Tokugawa-jidai_, "Đức Xuyên thời đại’’), là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản từ năm 1603 đến năm 1868. Thời kỳ này đánh dấu bằng sự
**Mạc phủ Tokugawa** (Tiếng Nhật: 徳川幕府, _Tokugawa bakufu_; Hán Việt: _Đức Xuyên Mạc phủ_), hay còn gọi là **Mạc phủ Edo** (江戸幕府, _Giang Hộ Mạc phủ_), là chính quyền Mạc phủ ở Nhật Bản do
**Mậu dịch Nanban** (tiếng Nhật: 南蛮貿易, _nanban-bōeki_, "Nam Man mậu dịch") hay "thời kỳ thương mại Nanban" (tiếng Nhật: 南蛮貿易時代, _nanban-bōeki-jidai_, "Nam Man mậu dịch thời đại") là một giai đoạn trong lịch sử Nhật
thumb|right|Một số món cà ri rau từ Ấn Độ right|thumb|Món cà ri gà với bơ trong một nhà hàng Ấn Độ thumb|Cà ri đỏ với thịt vịt ở [[Thái Lan]] **Cà-ri** (từ chữ Tamil là
là một tỉnh của Nhật Bản, nằm ở phía tây đảo Kyushu. Trung tâm hành chính là thành phố Nagasaki. ## Địa lý Tỉnh Nagasaki nằm ở phía Tây Nam của Nhật Bản, thuộc phía
nhỏ|Vài miếng cá hồi Rui-be Ẩm thực Nhật Bản có rất nhiều đặc sản địa phương, gọi là _kyōdo ryōri_ (郷土料理) trong tiếng Nhật, nhiều món trong số chúng được làm từ các nguyên liệu
là một vị vua của vương quốc Lưu Cầu, trị vì từ 1587 đến 1620. Trong thời gian trị vì của ông đã xảy ra sự kiện xâm lược Lưu Cầu vào năm 1609 và
**Lịch sử kinh tế Nhật Bản** được quan tâm nghiên cứu chính là vì sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của nước này và bởi vì Nhật Bản là nền kinh tế quốc gia
là vị Tướng Quân thứ 13 của chế độ Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản. Ông cầm quyền trong 5 năm từ 1853 đến 1858. Ông có thể lực yếu. Sự ngự trị của ông
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
**Nhật kiều** hay **người Nhật hải ngoại** (tiếng Nhật: ) là những người Nhật đã di dân khỏi Nhật Bản và con cháu của họ hiện đang sinh sống ở nước ngoài. Chuyến di cư
thumb|Những lính bộ binh Nhật Bản (_ashigaru_) sử dụng _tanegashima_ (matchlocks). hay là một loại súng hoả mai được du nhập vào Nhật Bản vào năm 1543, thông qua người Bồ Đào Nha. Tanegashima được
**_Japonaiserie ()_** là thuật ngữ mà họa sĩ Hậu-ấn tượng người Hà Lan Vincent van Gogh sử dụng để bày tỏ sự ảnh hưởng của nghệ thuật Nhật Bản. Trước năm 1854, giao thương với
thumb|right|Dejima và Vịnh Nagasaki, khoảng năm 1820. Hai tàu của Hà Lan và rất nhiều thuyền của Trung Quốc được miêu tả. thumb|right|Quang cảnh đảo Dejima nhìn từ Vịnh Nagasaki (Kawahara Keiga, 1836) thumb|Philipp Franz
**Các nhà thờ và địa điểm Cơ đốc giáo tại Nagasaki** là một nhóm gồm 13 địa điểm liên quan đến lịch sử Kitô giáo nằm ở hai tỉnh Nagasaki và Kumamoto, Nhật Bản. Các
nhỏ|[[Tháp Tokyo (2021)]] **Quan hệ Đài Loan – Nhật Bản** có thể phân thành các giai đoạn: Trước năm 1895 khi Đài Loan thuộc quyền thống trị của chính quyền Minh Trịnh và Đại Thanh;
phải|nhỏ|Bài lá _karuta_ in thơ trong tập _[[Ogura Hyakunin Isshu_]] là bài lá truyền thống của Nhật Bản. Loại bài lá này do các thương nhân Bồ Đào Nha du nhập đến Nhật Bản vào
là một loạt thay đổi chính sách và sắc lệnh phản động do Mạc phủ Tokugawa tiến hành nhằm mục đích giải quyết các vấn đề quan trọng liên quan đến kinh tế, thuế khóa,
**Người Nhật Bản ở Nga** tạo thành từ một phần nhỏ của cộng đồng _Nikkeijin_ trên toàn thế giới, bao gồm chủ yếu là người Nhật Bản ở nước ngoài và con cháu của họ