Hồ Khovsgol hay hồ Khuvsgul (, Khövsgöl nuur, chữ viết kinh điển:Tập tin:Kobsogol naghur.svg Köbsügül naɣur), còn gọi là Khovsgol dalai (, biển Khovsgol) hay Dalai Eej (, biển mẹ) là hồ lớn thứ hai và sâu nhất tại Mông Cổ cũng như đứng thứ 10 châu Á về diện tích và đứng thứ 4 châu Á về độ sâu
Lưu vực của nó tương đối nhỏ và có khoảng 96 sông, suối nhỏ đổ vào. Đường thoát nước duy nhất của nó nằm tại phía nam hồ, nối vào sông Egiin Gol, và con sông này lại nối vào sông Selenge để cuối cùng đổ vào hồ Baikal. Tổng thể, nước hồ phải chu du một khoảng cách trên 1.000 km và chênh lệch độ cao là khoảng 1.169 m, mặc dù khoảng cách theo đường chim bay giữa hai hồ này chỉ khoảng trên 200 km. Vị trí của nó ở miền bắc Mông Cổ giúp tạo thành ranh giới tự nhiên phía nam của các khu rừng taiga bạt ngàn của Siberi, trong đó loài cây thống lĩnh là thông rụng lá Siberi (Larix sibirica).
Hồ này được bao quanh bởi một số dãy núi. Đỉnh núi cao nhất là Bürenkhaan / Mönkh Saridag (3.492 m), với đỉnh của nó ở phía bắc hồ nằm ngay trên đường biên giới Nga-Mông Cổ. Bề mặt hồ bị đóng băng hoàn toàn trong mùa đông. Lớp băng dày và cứng đủ để cho các xe tải nặng có thể đi qua, vì thế các hành trình vận tải cũng từng được thiết lập trên mặt hồ như là một kiểu đường tắt cho các loại đường bộ thông thường. Tuy nhiên, thực tiễn này hiện nay đã bị cấm nhằm ngăn chặn ô nhiễm đối với hồ do rò rỉ dầu nhớt từ ô tô cũng như do xe tải có thể bị sụt khỏi lớp băng. Người ta ước tính rằng khoảng 30-40 ô tô đã bị chìm trong hồ theo thời gian.
Tầm quan trọng sinh thái
Hồ Khovsgol là một trong số 17 hồ cổ đại trên khắp thế giới đã trên 2 triệu năm tuổi và có lẽ là một trong các hồ cổ xưa nhất (hồ Vostok ở châu Nam Cực khoảng trên 1 triệu năm tuổi) và là nguồn dự trữ nước uống đáng kể nhất của Mông Cổ. Nước trong hồ có thể uống được mà không cần phải qua xử lý và tạo các điều kiện sống thuận lợi cho nhiều loại cá.
Khu vực xung quanh hồ là một vườn bảo tồn quốc gia lớn hơn cả vườn quốc gia Yellowstone tại Hoa Kỳ với diện tích 838,1 nghìn ha (số liệu năm 1992) và được bảo vệ chặt chẽ như là vùng chuyển tiếp giữa vùng thảo nguyên Trung Á và vùng rừng taiga Siberi. Hồ này theo truyền thống được coi là thần thánh trong vùng đất chịu các điều kiện khô hạn trong đó phần lớn các hồ là nước mặn.
Vườn quốc gia này là nơi sinh sống của nhiều loài động vật hoang dã như dê rừng Siberi (Capra sibirica), cừu aga (Ovis ammon), hươu đỏ (Cervus elaphus), sói xám (Canis lupus), chồn sói (Gulo gulo), hươu xạ Siberi (Moschus moschiferus), gấu nâu (Ursus arctos), nai sừng tấm Siberi (Alces alces cameloides) và chồn zibelin (Martes zibellina).
Khu vực nghiên cứu sinh thái dài hạn Khovsgol (Khuvsgul), (tên tiếng Anh: Hövsgöl (Khövsgöl) Long-term Ecological Research Site, viết tắt: Khovsgol LTERS) được thành lập năm 1997 và chương trình nghiên cứu rộng lớn đã bắt đầu ngay sau đó. Hiện nay, là một phần của mạng lưới quốc tế các khu vực nghiên cứu dài hạn, Khovsgol LTERS cung cấp một khung cảnh cho việc nuôi dưỡng cơ sở hạ tầng khoa học và môi trường của Mông Cổ, cho nghiên cứu thay đổi khí hậu và cho phát triển các phản ứng bền vững đối với một số thách thức môi trường mà hồ cũng như nguồn cung cấp nước cho nó phải đối mặt.
Từ nguyên và chuyển ngữ
Tên gọi Khovsgol có nguồn gốc từ tiếng Turk để chỉ "hồ nước xanh".. Nuur là từ trong tiếng Mông Cổ để chỉ "hồ". Có nhiều cách chuyển tự khác nhau, phụ thuộc vào việc chữ "х" trong bảng chữ cái Cyril được chuyển thành "h" hay "kh", hay chữ cái "ө" được chuyển thành "ö", "o" hay "u". Việc chuyển tự tên gọi của hồ từ dạng chữ viết Mông Cổ kinh điển thành Hubsugul, Khubsugul v.v cũng có thể được tìm thấy.
Thư viện ảnh
Hình:Hovsgol.jpg|Hồ Khovsgol
Hình:HovsgolDalai.jpg|Các rặng núi ở phía tây hồ
Hình:BlueHovsgol.jpg|Cảnh quan phía đông hồ
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hồ Khovsgol** hay **hồ Khuvsgul** (, _Khövsgöl nuur_, chữ viết kinh điển:Tập tin:Kobsogol naghur.svg _Köbsügül naɣur_), còn gọi là _Khovsgol dalai_ (, _biển Khovsgol_) hay _Dalai Eej_ (, _biển mẹ_) là hồ lớn thứ hai
**Khövsgöl** () là tỉnh cực bắc trong số 21 tỉnh của Mông Cổ. Tên của tỉnh bắt nguồn từ Hồ Khövsgöl. Tỉnh được thành lập vào năm 1931. Khatgal là trung tâm hành chính của
**Khankh** (tiếng Mông Cổ: Ханх) là một sum của tỉnh Khövsgöl tại miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, sum có 2.460 người. ## Lịch sử Sum Bürentogtokh được thành lập, cùng với toàn bộ
**Alag-Erdene** (tiếng Mông Cổ: Алаг-Эрдэнэ, _đá quý rực rỡ_) là một sum của tỉnh Khövsgöl tại miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 2.980 người. ## Lịch sử Sum Alag-Erdene
**Khatgal** (tiếng Mông Cổ: Хатгал, ) là một thị trấn ở tỉnh Khövsgöl, Mông Cổ, nằm tại bờ phía nam của hồ Khövsgöl. Khatgal có một sân bay và một cảng nhỏ, cùng với một
**Renchinlkhümbe** (tiếng Mông Cổ: Рэнчинлхүмбэ) là một sum của tỉnh Khövsgöl ở miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 4.740 người. ## Tên gọi Renchinlkhümbe được đặt tên theo Jambyn
**Chandmani-Öndör** (tiếng Mông Cổ: Чандмань-Өндөр) là một sum của tỉnh Khövsgöl tại miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 3.006 người. ## Lịch sử Sum Chandmani-Öndör được thành lập, cùng
**Các hồ tại Mông Cổ** được phân bố không đồng đều. Nhiều hồ trong số đó, bao gồm những hồ lớn nhất đều thuộc Vùng lõm Đại Hồ giữa Altai, Khangai và Tannu-Ola ở phía
**Tsagaan-Uul** (tiếng Mông Cổ: Цагаан-Уул, _núi trắng_) là một sum của tỉnh Khövsgöl ở miền trung Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 5.332 người. ## Lịch sử Sum Tsagaan-Uul được thành
**Erdenebulgan** (tiếng Mông Cổ: Эрдэнэбулган) là một sum của tỉnh Khövsgöl ở miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 2.763 người. ## Lịch sử Vào những năm 1920, một nhóm
**Bayanzürkh** (tiếng Mông Cổ: Баянзүрх, _"trái tim giàu có"_) là một sum của tỉnh Khövsgöl ở miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 3.964 người. ## Lịch sử Sum Bayanzürkh
**Arbulag** (tiếng Mông Cổ: Арбулаг, _dòng suối nhỏ phía bắc_) là một sum của tỉnh Khövsgöl tại miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 3.989 người. ## Lịch sử Sum
**Shine-Ider** (tiếng Mông Cổ: Шинэ-Идэр) là một sum của tỉnh Khövsgöl tại miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 3.824 người. ## Lịch sử Sum Shine-Ider được thành lập vào
**Tarialan** (tiếng Mông Cổ: Тариалан, _vùng đất trồng trọt_) là một sum của tỉnh Khövsgöl tại miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 6.085 người, là sum đông dân thứ
**Rashaant** (tiếng Mông Cổ: Рашаант, _spa_) là một sum của tỉnh Khövsgöl tại miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 3.501 người. ## Lịch sử trái|nhỏ|Tu viện được xây lại
**Tömörbulag** (tiếng Mông Cổ: Төмөрбулаг, _mạch nước sắt_) là một sum của tỉnh Khövsgöl tại miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 4.174 người. ## Lịch sử Sum Tömörbulag được
**Jargalant** (tiếng Mông Cổ: Жаргалант, _hạnh phúc_) là một sum của tỉnh Khövsgöl ở miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 5183 người. ## Lịch sử Sum Jargalant được thành
**Bürentogtokh** (tiếng Mông Cổ: Бүрэнтогтох, _để thiết lập hoàn toàn_) là một sum của tỉnh Khövsgöl tại miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 4.245 người. ## Lịch sử ###
**Ikh-Uul** (tiếng Mông Cổ: Их-Уул, _núi lớn_) là một sum của tỉnh Khövsgöl tại miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 4.170 người. ## Lịch sử Sum Ikh-Uul được thành
**Tosontsengel** (tiếng Mông Cổ: Тосонцэнгэл) là một sum của tỉnh Khövsgöl ở miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 4.144 người. ## Lịch sử Sum Tosontsengel được thành lập, cùng
**Galt** (tiếng Mông Cổ: Галт, _với lửa_) là một sum của tỉnh Khövsgöl tại miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 5.132 người. ## Lịch sử Sum Galt được thành
**Tsagaannuur** (tiếng Mông Cổ: Цагааннуур, tiếng Dukha: Аккөл, _Akköl_, nghĩa đen: hồ trắng) là một sum của tỉnh Khövsgöl ở miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 1.547 người. ##
**Tsetserleg** (tiếng Mông Cổ: Цэцэрлэг, _vườn_) là một sum của tỉnh Khövsgöl tại miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 4.766 người. ## Lịch sử Một sum Tsetserleg đã được
**Sangiin Dalai nuur** () là một hồ nước mặn tại miền bắc Mông Cổ, nằm tại ranh giới giữa các sum (huyện) Tsagaan-Uul, Shine-Ider và Burentogtokh của aimag (tỉnh) Khovsgol, và sum Ikh-Uul của aimag
**Dood Tsagaan nuur** (: _hồ trắng dưới_) là một hồ tại tây bắc aimag Khovsgol, Mông Cổ, nằm giữa hai sum (huyện) Tsagaannuur và Renchinlkhumbe. Nó đôi khi được chia thành các hồ Targan, Dund
**Lưu vực Hồ Uvs** (tiếng Nga: Увс нуурын хотгор, tiếng Mông Cổ:: Увс нуурын хотгор, _Uws núrīn hotgor_) là một Lòng chảo nội lục nhỏ nằm trên biên giới của Mông Cổ và Cộng hòa
**Sông Yenisei** (tiếng Nga: Енисей) là một trong những hệ thống sông lớn nhất đổ ra Bắc Băng Dương, với chiều dài 4.539 km (3.445 dặm) thì nó là con sông dài thứ 5 trên thế
**Sông Yenisei** (, _Yeniséy_; , _Yenisei mörön_; tiếng Buryat: Горлог мүрэн, _Gorlog müren_; tiếng Tuva: Улуг-Хем, _Uluğ-Hem_; tiếng Khakas: Ким суғ, _Kim suğ_) là một trong những hệ thống sông lớn nhất đổ ra Bắc
nhỏ|320x320px|Delgerkhaan (3093 m) ngọn núi cao nhất của dãy **Dãy núi Khoridol Saridag** (tiếng Mông Cổ: Хорьдол Сарьдагийн нуруу, _Khoridol Saridagiin nuruu_) là một dãy núi dài 150 km ở tỉnh Khövsgöl, Mông Cổ, giữa hồ
nhỏ|250x250px|Thung lũng Darkhad **Thung lũng Darkhad** (Tiếng Mông Cổ: Дархадын хотгор) là một thung lũng lớn ở phía tây bắc tỉnh Khövsgöl, Mông Cổ. Nó nằm giữa dãy Ulaan Taiga và Khoridol Saridag với độ
nhỏ|Tượng Chingünjav tại thủ đô [[Ulaanbaatar.]] **Chingünjav** (tiếng Mông Cổ: Чингүн, còn được gọi là _Đô đốc Chingün_, 1710 - 1757) là một hoàng tử Khalkha cai trị người Khotgoid và là một trong hai
Sông **Egiin Gol** () là một con sông chảy qua hai aimag (tỉnh) Khovsgol và Bulgan ở miền bắc Mông Cổ. Nó là lối thoát ra duy nhất của hồ Khovsgol và là một chi
**Sân bay Khatgal** nằm tại Khatgal, tỉnh Khövsgöl tại Mông Cổ. Sân bay có một đường băng trải sỏi. Đây là một sân bay nhỏ được xây dựng trong năm 2006/2007. Sân bay chỉ có
nhỏ|Öndör Gongor năm 1922 **Öndör Gongor** (tiếng Mông Cổ: Өндөр Гонгор, _Gongor cao_, k.1880/85 - cuối thập kỷ 1920), tên đầy đủ **Pureviin Gongor** (tiếng Mông Cổ: Пүрэвийн Гонгор), là một người đàn ông rất
**Sông Selenga** () hay **sông Selenge** (, ) là một con sông chảy qua Mông Cổ và Nga. Các sông đầu nguồn của nó là Ideriin gol (sơ cấp) và Delgermoron (thứ cấp). Nó chảy
Các dãy núi tại Nga, Mông Cổ, Kazakhstan và Trung Quốc nhỏ|Đá Treo cổ, Tây Sayan **Dãy núi Sayan** (; ; _dãy núi Kokmen_ vào thời Đột Quyết) nằm giữa tây bắc Mông Cổ và
Hẻm núi [[sông Chuluut]] Đây là một danh sách các dòng sông tại Mông Cổ, sắp xếp về mặt địa lý theo lưu vực sông. Trong tiếng Mông Cổ, sông được gọi là "gol" (гол)
nhỏ|Người làm nghề shaman ở [[Khövsgöl (tỉnh)|Khovsgol, Mông Cổ.]] **Shaman giáo** hay **Saman giáo** là một hình thức tín ngưỡng cổ xưa thông qua những người trung gian để giao tiếp với Thần linh, qua
**Tes** (tiếng Mông Cổ: Тэс гол; ) là một sông tại tây bắc Mông Cổ và miền nam Tuva thuộc Nga. Khởi nguồn của sông là tại sum Tsagaan-Uul thuộc Khövsgöl. Dòng sông sau đó
**Cộng hòa Buryatia** (; tiếng Buryat: Буряад Улас (_Buryaad Ulas_), , tiếng Mông Cổ: Буриад Улс, (_Buriad Uls_)) hay **Cộng hòa Bố Lí Á Đặc** (布里亞特共和國) là một chủ thể liên bang của Nga (một
**Cộng hòa Tyva** (; , _Tyva Respublika_), **Tuva** () hay **Đường Nỗ Ô Lương Hải** (唐努烏梁海 - tên gọi vào thời nhà Thanh), là một nước cộng hòa thuộc chủ thể liên bang của Nga.
phải|phong cảnh [[Tariat]] phải|Toàn cảnh [[Terkhiin Tsagaan Nuur.]] **Arkhangai** (, nghĩa là _Bắc Khangai_) là một trong 21 aimag (tỉnh) của Mông Cổ. Tỉnh nằm hơi lệch về phía tây của đất nước và nằm
**Người Buryat** (tiếng Buryat: Буряад, _Buryaad_) hay **Người Bố Lí Á Đặc** (布里亞特), có dân số khoảng 700.000 người, là nhóm dân tộc bản địa lớn nhất tại vùng Siberia. Vùng cư trú truyền thống
**Cách mạng Dân chủ 1990 tại Mông Cổ** (, Ardchilsan Khuvĭsgal, _Cách mạng Dân chủ_) là một cuộc cách mạng chống chế độ xã hội chủ nghĩa và chủ thuyết cộng sản chủ nghĩa nhằm
**Mông Cổ thuộc Thanh** (chữ Hán: 清代蒙古), còn gọi là **Mông Cổ Minh kỳ** (蒙古盟旗), là sự cai trị của nhà Thanh của Trung Quốc trên thảo nguyên Mông Cổ, bao gồm cả bốn aimag
**Mông Cổ** là một quốc gia nội lục ở Đông Á, nằm giữa Trung Quốc và Nga. Địa hình là núi và cao nguyên nhấp nhô, với độ cao lớn. Tổng diện tích đất liền
nhỏ|phải|Một phụ nữ người Dukha với các vật dụng từ tuần lộc **Người Dukha** (tiếng Mông Cổ: Цаатан, **Tsaatan**) là một nhóm nhỏ người Tuva (Tozhu Tuva) thuộc nhóm người Thổ (Turkic) và là cộng
**Tosontsengel** () là một sum của tỉnh Zavkhan ở miền tây Mông Cổ. Vào năm 2005, dân số của sum là 9.045 người. ## Địa lý Sum có diện tích khoảng 5.300 km. Trung tâm sum,
**Henning Haslund-Christensen** (31 tháng 8 năm 1896 - 13 tháng 9 năm 1948) là một nhà văn và nhà nhân loại học người Đan Mạch. ## Tiểu sử Ông sinh ra ở Copenhagen vào ngày
**Valentin Ivanovich Rassadin** (; 12 tháng 11 năm 1939 – 15 tháng 8 năm 2017) là một nhà ngôn ngữ học Liên Xô và Nga. Ông nổi tiếng với các tài liệu và nghiên cứu