✨Giao lĩnh

Giao lĩnh

Thói quen ăn mặc ở [[An Nam theo Vạn quốc nhân vật đồ do người Nhật Bản khắc in năm 1645: Đàn bà mặc áo cổ tròn, còn đàn ông mặc áo cổ chéo.]] Áo Giao lĩnh, hay Giao lãnh (Hán tự:交領), âm Nôm là Áo Tràng bạt (長拔).Từ tràng bạt vốn xuất phát từ tập quán tràng áo xiên (tức cổ áo) được tạo thành bằng cách ghép thêm vạt cả. Áo cổ chéo thường được dùng như lễ phục, tế phục mặc phủ ra ngoài.

Lịch sử

Kiểu áo này phổ biến vào thời phong kiến ở Việt Nam. Áo giao lĩnh là 1 dạng của áo trực lĩnh

Trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn có ghi chép về sự kiện triều đình chúa Trịnh quy định y phục cho vùng Thuận Hóa (Mới chiếm được của chúa Nguyễn từ năm 1774):" Mùa xuân năm Bính Dần, đặt trấn phủ Nha môn ở Thuận Hóa. Bắt đầu từ tháng 7, tuyên dụ rõ rằng: Y phục bản quốc (Y phục triều Lê - Trịnh) có chế độ riêng, địa phương này trước đây cũng tuân theo quốc tục. Nay cung vâng Thượng đức, dẹp yên biên phương, trong ngoài thống nhất, chính trị và phong tục cũng nên như một. Các loại quần áo kiểu Khách (kiểu Trung Quốc) còn thấy phải đôi theo quy chế quốc tục (...) Đàn ông, đàn bà mặc áo trực lĩnh ngắn tay, ống tay áo rộng hẹp cho được tùy tiện. Áo thì từ hai bên nách trở xuống đều nên may khép lại (không xẻ tà), không được để mở, không được chiết eo. Riêng đàn ông nếu muốn mặc áo cổ tròn hẹp tay để tiện làm việc cũng được. Lễ phục dùng áo trực lĩnh ống tay dài, hoặc may bằng vải Thanh Cát, hoặc vải thâm, hoặc vải trắng tùy nghi"

Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cho biết trước năm 1744 khi chúa Nguyễn Phúc Khoát ra lệnh cải cách y phục thì người Việt tại Gia Định:" vẫn tuân theo tập tục cũ của Giao Chỉ, người dân xõa tóc đi chân đất, nam nữ đều dùng áo trực lĩnh ngắn tay, áo may khép lại hai bên nách, không có quần, đàn ông dùng một khổ vải quấn quanh eo, đến dưới mông thì bó lại thắt vào vùng rốn, gọi là cái khố, đàn bà có loại váy quây không gấp nếp, đội nón lớn"

Thời nhà Lê Trung Hưng, trước năm 1744, người dân Đàng Ngoài và Đàng Trong đều mặc áo trực lĩnh. Các dạng áo trực lĩnh có ba kiểu chính: Giao lĩnh, Bù long và áo cổ thìa. Tập tin:Nguyễn Quý Đức.jpg|Tranh thờ danh nhân Nguyễn Quý Đức (1648-1720) mặc Bù Long Tập tin:Lord Nguyen Phuc Thuan.jpg|Tôn Thất Hiệp hay Nguyễn Phúc Thuần (1653-1675) con của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, trang phục có thể là áo Tràng bạt hoặc áo cổ thìa Tập tin:Portrait of Mrs. Minh Nhan, Quynh Phu district, Thai Binh province, 1804 AD, gouache on paper - Vietnam National Museum of Fine Arts - Hanoi, Vietnam - DSC05104.JPG|Chân dung Minh Nhẫn Nhụ nhân Bùi Thị Giác (1738-1805; Quỳnh Phụ - Thái Bình), lưu tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Trang phục bên ngoài khoác một áo cổ thìa màu đen, để lộ vai và lớp áo cổ thìa màu cam bên trong Tập tin:Vietnamese in pre-colonial Philippines.jpg|Người Việt Đàng Ngoài (Caupchy - Giao Chỉ) trong Boxer Codex (1590) Tập tin:Viet3.jpg|Người Việt Đàng Trong (Canglan - Quảng Nam) trong Boxer Codex (1590)

Sang đến thời chúa Nguyễn Phúc Khoát năm 1744(Có giả thuyết từ khi Đào Duy Từ phù chúa Nguyễn Phúc Nguyên năm 1627-1634) có lệnh đổi trang phục của người Đàng Trong, dùng áo 5 thân cài nút lập lĩnh (cổ đứng), bỏ vi quần(váy xống) để mặc xiêm quần(trong lót khố 2 ống). Nam giới Đàng Ngoài mặc áo trực lĩnh cho đến khi trào Nguyễn dẹp trào Tây Sơn.

Sách Minh Mạng chính yếu cho biết vào năm Đinh Hợi (1827) vua Minh Mệnh đã lệnh bắt phụ nữ từ sông Gianh trở ra miền Bắc phải theo trang phục như miền trong, nhưng mệnh lệnh đó không được thi hành nên đến năm Đinh Dậu (1837) vua lại ban dụ rằng: "Ngày trước, từ Linh Giang [sông Gianh] trở ra Bắc, dân vẫn mặc y phục như tục cũ. Đã ban dụ truyền lệnh sửa đổi theo y phục từ tỉnh Quảng Bình trở vào miền trong, để phong tục đồng nhất. Lại cho thời hạn rộng rãi, khiến dân được thong thả may sắm quần áo. Từ năm Minh Mệnh thứ 8 đến nay, đã mười năm rồi, vẫn nghe nói dân chưa sửa đổi. Vả lại, từ tỉnh Quảng Bình trở vào Nam, mũ khăn, quần áo đều theo cách của Đại Hán,Đại Minh, xem khá tề chỉnh. Theo phong tục cũ của người miền Bắc,nam mặc đậu khố, con gái mặc áo thắt nhuyễn,hạ y mặc vi quần. Đẹp xấu đã thấy rõ rệt. Có kẻ đã theo tục tốt, cũng có kẻ vẫn giữ nguyên thói cũ, phải chăng cố ý làm trái mệnh trên? Các tỉnh thần nên đem ý ấy mà chỉ bảo, khuyên dụ nhân dân. Hạn trong năm nay, phải nhất tề thay đổi. Nếu đầu năm sau còn giữ theo y phục cũ, sẽ bị tội"

nhỏ|1x1px Dưới thời Nguyễn, lối y phục tiền trào bị cấm, Bù long và áo cổ thìa biến mất, Giao lĩnh chỉ còn dùng như loại áo thụng mặc cùng phong cân trong lúc tế lễ. Đại để là Thời Nguyễn, từ "trực lĩnh" cũng biến mất hẳn vì chỉ còn dùng loại trực lĩnh buộc vạt sang phía nách gọi là "giao lĩnh"

Chất liệu

Áo trực lĩnh được may từ tơ tằm: sa(紗), gấm(cẩm錦), đoạn ,lang(綾),the(thi絁)... Mùa hè trời nóng thì dùng sa/the, vải thanh cát (tơ thân cây chuối để dệt như cách sản xuất tại Philippin và tỉnh Okinawa-Nhật Bản do vị trí địa lý vùng nhiệt đới). Mùa đông thì dùng gấm, đoạn.

*Chú ý

-Tượng nữ có kết cấu chân tóc cài hoa điền(花鈿),trên đỉnh tóc cài điền hạp(鈿合),buộc tóc bằng kê đai(笄帶)

-Nữ quý tộc có thể dùng Lược phát tử(掠髮子),nhiếp(鑷),nhĩ hoàn(耳環),trạc(鐲),sai(釵).Ngoại y có bán tí(半臂),mã quái(馬褂)

Tay cầm quạt kim phiến(金扇),đại mạo phiến(玳瑁扇)

-Nữ quan đeo đinh tự quan(丁字冠),vân kiên(雲肩)

-Bí(帔)là ấp quàng vai khi nữ xuất giá để kết hôn

-Áo 4 thân trào Lê-Nguyễn có thể nối với nhau bằng khấu(扣)có loại kim hoặc ngân hoặc đồng,

nữu(鈕)là lỗ dây kết kiểu cách đa dạng cho áo bù long

-Thôn nữ mặc áo 4 thân trách tụ buộc nhuyễn,tóc tết gọn,làm duyên bằng búi nhúm tóc nhỏ trên đỉnh đầu

-"Tràng vạt"là cách đọc hiện đại ảnh hưởng Pháp thuộc,trước đó không dùng âm"v"

Mũ hỏa phật trên các tượng nữ hậu phi,công chúa trào Lê là mũ phong cách phật giáo,không phải mũ theo lịch sử mà người Việt đội.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Giao linh** hay **cứt mọt** (**_Zollingeria dongnaiensis_**) là một loài thực vật thuộc họ Sapindaceae. Loài này có ở Thái Lan và Việt Nam.
**Chi Giao linh** (**_Zollingeria_**) là một chi thực vật thuộc họ Sapindaceae. Bao gồm các loài: * _Zollingeria borneensis_ Adema * _Zollingeria dongnaiensis_ Pierre
**Giao Linh** (tên khai sinh: **Đỗ Thị Sinh**, sinh ngày 8 tháng 9 năm 1949) là một nữ ca sĩ nhạc vàng nổi tiếng người Việt Nam, bà thành danh từ những năm gần cuối
nhỏ|linh ảnh [[Giê-su|Chúa Giê-xu Ki-tô do hoạ sĩ nổi tiếng Nga Andrei Rublev vẽ.]] **Linh ảnh**, **ảnh thánh**, **thánh tượng**, hay **ảnh tượng**, (tiếng Anh: _icon_, chữ Hi Lạp: _Αγιογραφία_, chữ Nga: _Икона_, chữ Hán:
Thói quen ăn mặc ở [[An Nam theo _Vạn quốc nhân vật đồ_ do người Nhật Bản khắc in năm 1645: Đàn bà mặc áo cổ tròn, còn đàn ông mặc áo cổ chéo.]] **Áo
**Linh Bảo Thiên Tôn** (靈寶天尊) là một trong ba vị thần tối cao (Tam Thanh) theo Đạo giáo Trung Quốc, ở vào ngôi Thượng Thanh. ## Nguồn gốc Trong thần điện Đạo giáo, lúc đầu
Trong Cơ Đốc giáo, thuật từ liên phái hoặc phi hệ phái (_non-denominational_) được dùng để chỉ những giáo đoàn không chịu thiết lập quan hệ chính thức với một hệ phái nào. Các giáo
**Nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa** (tiếng Ả Rập: المسجد الاقصى, chuyển tự al-Masjid al-Aqsa: "các Thánh đường Hồi giáo xa nhất"), còn được gọi là **al-Aqsa**, là một nơi thánh đường Hồi giáo ở Phố
**Hoài Linh** (1920 – 1995) tên thật **Lê Văn Linh** là một nhạc sĩ nhạc vàng nổi tiếng. Trước 1975, ông hoạt động trong đoàn văn nghệ **Vì Dân** (thuộc Nha Cảnh sát Quốc gia)
thumb|[[Al-Masjid an-Nabawi ở Medina, một trong những nhà thờ Hồi giáo linh thiêng nhất]] **Thánh đường Hồi giáo**, **giáo đường Hồi giáo** hay **nhà thờ Hồi giáo** ( — , số nhiều: _masājid_, — ;
Một nữ [[chiến binh với cây giáo]] **Giáo** là một loại vũ khí cận chiến gồm một trục (thường bằng gỗ) với một đầu nhọn. Mũi giáo có thể là một đầu của trục được
**Hệ phái Kitô giáo** là một tổ chức tôn giáo riêng biệt trong Kitô giáo, được xác định bởi các đặc điểm như tên, tổ chức, lãnh đạo và học thuyết (giáo lý). Thuật ngữ
**Giuse Nguyễn Chí Linh** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
Quốc giáo của nhà Thương () là một tôn giáo cổ đại của Trung Quốc, trong đó các tín đồ được đào tạo giao tiếp với nhiều vị thần, bao gồm tổ tiên và các
Các chức sắc và tín đồ ăn mặc lễ phục theo giáo lý của tôn giáo **Giáo lý Cao Đài** là những lý thuyết của đạo Cao Đài ## Mục đích Mục đích của đạo
**Quyền động vật trong các tôn giáo Ấn Độ** là quan điểm, quan niệm, giáo lý, học thuyết của các tôn giáo lớn ở Ấn Độ bao gồm Ấn Độ giáo (Hindu giáo), Phật giáo
**Biển Đức XVI** (cách phiên âm tiếng Việt khác là _Bênêđictô XVI_ hay _Bênêđitô_, xuất phát từ Latinh: _Benedictus_; tên khai sinh là **Joseph Aloisius Ratzinger**; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12
**Gioan Phaolô II** (hay **Gioan Phaolô Đệ Nhị;** tiếng Latinh: _Ioannes Paulus II_; tên khai sinh: **Karol Józef Wojtyła,** ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng
nhỏ|phải|_Chúa Kitô Toàn năng_, tranh vẽ [[thế kỷ 6|thế kỷ thứ 6, bức linh ảnh cổ xưa tại Tu viện Thánh Catarina (Sinai).]] **Giáo hội Chính thống giáo Đông phương**, tên chính thức là **Giáo
nhỏ|320x|Các biểu tượng của các tôn giáo lớn trên thế giới (từ trái qua phải)
Hàng 1: [[Kitô giáo, Do Thái giáo, Ấn Độ giáo
Hàng 2: Hồi giáo, Phật giáo, Thần đạo
Hàng 3:
Trong Tam giáo thì Nho giáo (儒教) và Đạo giáo (道教) là hai hệ thống tín ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc; còn Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ.
**Lịch sử Thánh nhạc Công giáo Việt Nam** nói về quá trình hình thành và phát triển của dòng nhạc Thánh ca Công giáo tại Việt Nam. ## Lịch sử Khi nói đến bài thánh
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Giao tiếp** thường được định nghĩa là sự truyền tải thông tin. Hiện chưa có thống nhất về định nghĩa chính xác của thuật ngữ, đồng thời có nhiều tranh cãi về việc giao tiếp
**Tôn giáo tại Hoa Kỳ** đặc trưng bởi sự đa dạng các niềm tin và thực hành tôn giáo. Theo các cuộc thăm dò ý kiến gần đây, 76% tổng số dân Hoa Kỳ nhận
Trang sơ lược này cung cấp thông tin khái quát về Giáo hội Công giáo – hệ phái có lượng tín đồ lớn nhất trong Kitô giáo. Người đọc có thể dùng trang này như
nhỏ|phải|Vị linh đồng chuyển thế Phật sống [[Gedhun Choekyi Nyima được cho là bị Chính quyền Trung Quốc giam giữ thủ tiêu để đưa người thân chính quyền lên chức vị Lạt Ma]] **Linh đồng
right|thumb|[[Phân tầng xã hội truyền thống của những nước phương tây trong thế kỷ XV]] right|thumb **Giáo hội và nhà nước ở châu Âu thời trung cổ** nêu rõ sự tách biệt nguyên tắc phân
**Vai trò của Kitô giáo với nền văn minh nhân loại** rất lớn và phức tạp. Nó đan xen với lịch sử và sự hình thành của xã hội phương Tây, và nó đã đóng
**Alexandre Paul Marie Chabanon Giáo** (1873-1936) là một giám mục người Pháp, phục vụ công việc truyền giáo tại Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ giám mục Tông toà Giáo phận Huế từ năm
**Linh dương sừng móc** hay còn gọi là **Linh dương Topi** (Danh pháp khoa học: _Damaliscus korrigum jimela_, Matschie, 1892) là một phân loài linh dương sừng bẻ hay linh dương sừng ngoặt của loài
phải|nhỏ|Thánh Luca được cho là tác giả của các sách [[Phúc Âm Luca và Công vụ Tông đồ, tranh khảm bên trong Nhà thờ lớn Berlin]] **Linh hứng** (theo cách gọi của Công giáo) hoặc
**Giáo hoàng Gioan Phaolô I** (Latinh: _Ioannes Paulus PP. I_, tiếng Ý: _Giovanni Paolo I_, tên khai sinh là **Albino Luciani**, 17 tháng 10 năm 1912 – 28 tháng 9 năm 1978) là vị Giáo
**Thánh Piô X, Giáo hoàng** (Tiếng Latinh: _Sancte Pie X_) (2 tháng 6 năm 1835 – 20 tháng 8 năm 1914), tên khai sinh: **Melchiorre Giuseppe Sarto** là vị Giáo hoàng thứ 257 của Giáo
**Tổng giáo phận Huế** (tiếng Latin: _Archidioecesis Hueensis_) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở miền trung Việt Nam. Tính đến năm 2019, Tổng Giáo phận Huế có diện tích
**Giáo phận Vinh** (tiếng Latin: _Dioecesis Vinhensis_) là một giáo phận Công giáo Rôma tại phía Bắc miền Trung Việt Nam. Địa bàn giáo phận Vinh tương ứng với tỉnh Nghệ An, có diện tích
**Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam** là một tổ chức xã hội tại Việt Nam, là một tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy thành viên của Ủy
**Giáo triều Rôma** () là cơ quan điều hành trung ương, được Giáo hoàng trao quyền quản lý Thành quốc Vatican và phục vụ Giáo hội Công giáo hoàn vũ với Giáo hoàng, người kế
nhỏ|Hình ảnh hai linh mục Công giáo tại [[Roma, 2005]] **Linh mục** (còn được gọi là **thầy cả** trong tài liệu tiếng Việt xưa) là một chức phẩm của Giáo hội Công giáo Rôma, là
nhỏ|Người làm nghề shaman ở [[Khövsgöl (tỉnh)|Khovsgol, Mông Cổ.]] **Shaman giáo** hay **Saman giáo** là một hình thức tín ngưỡng cổ xưa thông qua những người trung gian để giao tiếp với Thần linh, qua
**Việc bổ nhiệm các giám mục trong Giáo hội Công giáo** là một quá trình phức tạp. Các giám mục có thâm niên, các tín hữu, sứ thần Tòa Thánh, các thành viên khác nhau
nhỏ|260x260px|[[Thánh lễ tại nhà thờ Thánh Joseph thuộc Hạt Đại diện Tông tòa Phnôm Pênh]] **Giáo hội Công giáo tại Campuchia** là một phần của Giáo hội Công giáo toàn cầu, đặt dưới sự lãnh
thumb|Ba linh mục Phêrô Nguyễn Văn Tường, Phêrô Đậu Quang Lĩnh và Gioan Baotixita Nguyễn Thần Đồng trước phiên tòa đại hình ngày 18 tháng 10 năm 1909. Linh mục Lĩnh là người đeo gông
phải|nhỏ|Bản đồ các giáo phận Công giáo Việt Nam **Giáo hội Công giáo tại Việt Nam** hiện tại được tổ chức theo địa giới gồm có 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài
**Biến cố Phật giáo 1963**, còn được gọi là **sự kiện đàn áp Phật giáo 1963, pháp nạn Phật giáo Việt Nam 1963 **hay gọi đơn giản là **phong trào Phật giáo 1963 **là một
phải|nhỏ|Biểu tượng của Ấn Độ giáo được thế giới biết đến nhỏ|phải|Một ngôi đền Ấn Độ giáo **Ấn Độ giáo**, **Ấn giáo** hay **Hindu giáo** (Hưng đô giáo) là một tôn giáo, hệ thống tín
Biểu trưng thường gặp của các tôn giáo Abraham: [[Ngôi sao David (ở trên cùng) của Do Thái giáo, Thánh giá (ở dưới bên trái) của Cơ Đốc giáo, và từ Allah được viết theo