✨Gebel Barkal

Gebel Barkal

Gebel Barkal hay còn gọi là Jebel Barkal () là ngọn núi nhỏ nằm cách thủ đô Khartoum khoảng 400 km về phía bắc, trong thị trấn Karima của miền Bắc Sudan, trên một đoạn uốn cong lớn của sông Nile, trong khu vực được gọi là Nubia. Ngọn núi này cao 98 m, đỉnh núi tương đối phẳng, và dường như đã được sử dụng như một là nơi dừng chân cho các thương nhân trên các tuyến đường quan trọng giữa Trung Phi, Ả Rập và Ai Cập, nơi mà họ có thể dễ dàng vượt qua được sông Nile. Năm 2003, ngọn núi này cùng với khu vực khảo cổ thành phố cổ đại Napatan, được công nhận là di sản thế giới của UNESCO.

Lịch sử

Năm 1450 Trước công nguyên, Pharaoh Thutmose III mở rộng đế chế của mình đến vùng này và coi Gebel Barkal là giới hạn phía nam của vương quốc. Ở đó, ông đã xây dựng thành phố Napata gần đó, khoảng 300 năm sau đó, nó trở thành thủ đô của vương quốc độc lập Kush. Vị vua thứ 25 của xứ Nubia là Piye sau rất nhiều lần mở rộng vương quốc mới của mình đã cho xây dựng đền thờ Amun ở thành phố này và dựng tấm bia bên trong đó nhằm ghi chép lại những kỳ công trong chiến tranh mở rộng quyền lực.

Khảo cổ

Xung quanh Gebel Barkal bao gồm ít nhất 13 ngôi đền và 3 cung điện, lần đầu tiên được mô tả bởi những nhà thám hiểm châu Âu trong những năm 1820. Năm 1862, năm bản khắc từ thời kỳ trung gian thứ ba đã được một sĩ quan Ai Cập tìm được và chuyển nó tới Bảo tàng Cairo, và năm 1916 các nhà khoa học khảo cổ thực hiện một cuộc khai quật lớn được thực hiện bởi một đoàn thám hiểm chung của Đại học Harvard và Bảo tàng Mỹ thuật Boston dưới sự chỉ đạo của George Reisner. Từ những năm 1970, một nhóm nghiên cứu từ Đại học Rome La Sapienza, dưới sự chỉ đạo của Sergio Donadoni, và một nhóm nghiên cứu thuộc Bảo tàng Boston trong những năm 1980, dưới sự chỉ đạo của Timothy Kendall tiếp tục khám phá khu vực này. Các ngôi đền lớn như ngôi đền của thần Amun, tới ngày nay vẫn được coi là khu vực thiêng liêng đối với người dân địa phương.

Gebel Barkal giống như là một nghĩa trang hoàng gia trong thời Vương quốc Meroitic. Các ngôi mộ sớm nhất có niên đại vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên như là mộ của vua Teriqas (khoảng 29-25 TCN), nữ hoàng Nawidemak (thế kỷ trước Công nguyên 1) hay vua Aktisanes (thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên)...

Hình ảnh

Image:Jebel_barkal_sunset.jpg|Kim tự tháp gần Jebel Barkal Image:Barkal pyramids south.jpg|Nhóm kim tự tháp phía nam Image:Jebel barkal rock.jpg|Những trụ cột đứng cuối cùng của ngôi đền của Amun ở Napata, chân núi Jebel Barkal.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Gebel Barkal** hay còn gọi là **Jebel Barkal** () là ngọn núi nhỏ nằm cách thủ đô Khartoum khoảng 400 km về phía bắc, trong thị trấn Karima của miền Bắc Sudan, trên một đoạn uốn
**Nefertemkhure Taharqa** (hay **Taharqo**) là pharaon thứ tư của Vương triều thứ 25 trong lịch sử Ai Cập cổ đại và là vua của Vương quốc Kush, cai trị trong khoảng năm 690 – 664
nhỏ|228x228px|Phác họa Tấm bia Đại thắng của Piye **Piye** hay **Piankhi**, là một vị vua của Vương quốc Kush và cũng là pharaon sáng lập Vương triều thứ 25 trong lịch sử Ai Cập cổ
nhỏ|Bệ thờ của Atlanersa tại ngôi đền B 700 **Khukare Atlanersa** là một vị vua người Nubia cai trị vào khoảng năm 653 - 643 TCN. Một số bà vợ của Atlanersa: * **Yeturow**, **Khalese**
Dưới đây là danh sách các Di sản thế giới do UNESCO công nhận tại châu Phi. ## Ai Cập (7) trái|nhỏ|[[Tu viện Thánh Catarina (Sinai)|Tu viện Saint Catherine]] * Abu Mena (1979) * Thebes
**Thutmosis III** (sinh 1486 TCN, mất 4 tháng 3 năm 1425 TCN) còn gọi là **Thutmose** hoặc **Tuthmosis III**, (tên có nghĩa là "Con của Thoth") là vị pharaon thứ sáu của Vương triều thứ
**Sekheperenre Senkamanisken** là một vị vua người Nubia cai trị Vương quốc Kush vào khoảng năm 643 - 623 TCN. Tuy không còn quyền cai trị Ai Cập nhưng ông vẫn sử dụng các danh
**Neferkare Shabaka** là pharaon thứ ba của Vương triều thứ 25 trong lịch sử Ai Cập cổ đại, cai trị trong khoảng năm 705 – 690 TCN. ## Gia quyến Shabaka là con của vua
**Abar** (còn được viết là **Abala** hoặc **Abale** Bà được biết đến qua nhiều tấm bia đá được tìm thấy ở Sudan và Ai Cập. ## Tiểu sử Abar là một phụ nữ người Nubia,
**Ankhkare Anlamani** là một vị vua của vương quốc Kush, cai trị trong khoảng năm 620 - 590 TCN. Anlamani vẫn sử dụng các danh hiệu của một pharaon Ai Cập như các vua trước
**Merykare Aspelta** là một vị vua của vương quốc Kush, cai trị trong khoảng năm 593 - 568 TCN. Ông là em ruột của vị vua tiền nhiệm Anlamani. ## Tiểu sử Aspelta được chứng
**Nasalsa** là một vương hậu người Nubia của vương quốc Kush. ## Tiểu sử Nasalsa là chị/em gái của một vị vua, và cũng là vợ của vị vua đó. Bà chắc chắn là mẹ
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh