✨Final Fantasy I

Final Fantasy I

là trò chơi điện tử nhập vai kỳ ảo do Square phát triển và xuất bản vào năm 1987. Đây là tác phẩm đầu tiên thuộc dòng trò chơi Final Fantasy của Square do Sakaguchi Hironobu sáng tạo nên. Ban đầu Final Fantasy vốn được phát hành cho NES, sau này được làm lại cho nhiều máy chơi game console khác và hay được gói chung với Final Fantasy II trong các bộ tập hợp trò chơi điện tử. Câu chuyện game kể về bốn thanh niên được gọi là Chiến binh Ánh sáng, mỗi người họ đều nắm giữ một trong bốn quả cầu nguyên tố của thế giới bị Tứ Quỷ Nguyên tố nguyền rủa. Họ phải sát cánh cùng nhau để diệt trừ thế lực ma quỷ nhằm khôi phục lại ánh sáng cho các quả cầu nguyên tố và giải cứu thế giới.

Final Fantasy vốn được dự tính với cái tên tạm định là Fighting Fantasy, nhưng do các vấn đề về thương hiệu và hoàn cảnh tồi tệ lúc bấy giờ của Square cũng như bản thân Sakaguchi mà tên gọi này đã buộc phải đổi thành Final Fantasy. Tác phẩm là thành công lớn về mặt thương mại, nhận được đánh giá nhìn chung là tích cực khiến cho phần chính tiếp theo cũng như phần phụ của series Final Fantasy gặt hái được nhiều thành công. Bản gốc hiện được coi là một trong những trò chơi nhập vai có ảnh hưởng và thành công nhất của hệ máy Nintendo Entertainment System (NES), đóng vai trò quan trọng trong việc phổ biến thể loại này. Lời khen ngợi của giới phê bình tập trung vào đồ họa của tác phẩm, trong khi lời chỉ trích nhắm vào khoảng thời gian đi lang thang trong thế giới game để tìm kiếm trận chiến đụng độ ngẫu nhiên nhằm thăng cấp kinh nghiệm cho nhân vật người chơi. Đến tháng 3 năm 2003, tất cả phiên bản của Final Fantasy đã bán được tổng cộng hai triệu bản trên toàn thế giới.

Lối chơi

Final Fantasy có bốn chế độ chơi cơ bản: bản đồ overworld, thị trấn và dungeon, màn hình chiến đấu và màn hình menu. Bản đồ overworld là phiên bản thu nhỏ của thế giới hư cấu trong trò chơi mà người chơi sử dụng để hướng nhân vật đến địa điểm khác nhau. Phương thức di chuyển chính ở overworld là đi bộ, đi thuyền, đi ca nô và có thể đi bằng tàu bay khi mà người chơi hoàn thành một phần cốt truyện. Ngoại trừ một số trận chiến được lập trình sẵn ở một số địa điểm trong game hoặc trận chiến với trùm, người chơi chạm trán với kẻ thù một cách ngẫu nhiên trên bản đồ thực địa và trên bản đồ overworld khi đi bộ, ca nô hoặc tàu. Người chơi phải lựa chọn chiến đấu với kẻ thù hoặc bỏ chạy khỏi trận chiến. trái|nhỏ| Các Chiến binh Ánh sáng chiến đấu với Quỷ Nguyên tố Đất (Fiend of Earth) [[Lich. |liên_kết=Special:FilePath/Final_Fantasy_I_Lich_Battle.png]] Cốt truyện của trò chơi tiến triển khi người chơi vượt qua thị trấn và dungeon. Một số cư dân của thị trấn cung cấp thông tin hữu ích giúp người chơi xác định điểm đến tiếp theo trong trò chơi, trong khi một số khác là chủ cửa hàng bán món đồ hoặc trang bị. Dungeon chủ yếu xuất hiện ở khu vực như rừng, hang động, núi, đầm lầy, hang động dưới nước và tòa nhà. Dungeon thường có rương chứa món đồ quý hiếm mà hầu hết cửa hàng đều không có. Màn hình menu của game cho phép người chơi theo dõi điểm kinh nghiệm và cấp độ nhân vật, để chọn trang bị mà nhân vật có thể sử dụng cũng như sử dụng món đồ và phép thuật. Thuộc tính cơ bản nhất của nhân vật là cấp độ, có thể dao động từ một đến năm mươi và xác định bởi lượng kinh nghiệm của nhân vật. Đạt được cấp độ nhất định sẽ làm tăng một số thuộc tính, chẳng hạn như điểm hit point tối đa (HP), đại diện cho sức khỏe nhân vật. Nhân vật sẽ tử trận khi họ không còn HP nào. Nhân vật nhận được điểm kinh nghiệm khi giành được chiến thắng trong trận chiến.

Người chơi bắt đầu game bằng cách chọn bốn nhân vật để lập thành một nhóm và lựa chọn đó không thể thay đổi lại trong suốt trò chơi. Có sáu lớp: Đấu sĩ, Đạo tặc, Đai Đen, Pháp sư Đỏ, Pháp sư Trắng và Pháp sư Đen. Sau này trong trò chơi, người chơi có thể tùy chọn "nâng cấp lớp" nhân vật. Nâng cấp lớp sẽ làm hoàn thiện chân dung sprite của nhân vật và giúp một số lớp có thể sử dụng vũ khí và phép thuật mà trước đó họ không thể sử dụng. Cuối cùng, Final Fantasy được phát triển bởi một nhóm gồm bảy nhân viên chủ chốt của Square được gọi là "A-Team". Sakaguchi đã thuyết phục nhà thiết kế trò chơi đồng nghiệp Ishii Koichi và Kawazu Akitoshi tham gia dự án. Kawazu là người chịu trách nhiệm chính về hệ thống và chuỗi trận chiến mà ông chủ yếu dựa vào ý tưởng từ game nhập vai trên bàn Dungeons & Dragons và game nhập vai Wizardry. Ví dụ, điểm yếu của kẻ thù đối với nguyên tố như lửa và băng vẫn chưa được đưa vào game nhập vai Nhật Bản cho đến thời điểm đó. Kawazu đã yêu thích khía cạnh như vậy của game nhập vai phương Tây và quyết định đưa chúng vào Final Fantasy. Ông cũng chủ trương để người chơi tự do lựa chọn lớp nhân vật cho nhóm của mình vào thời điểm bắt đầu tác phẩm vì ông cảm thấy "niềm vui trong một game nhập vai bắt đầu khi bạn tạo ra một nhân vật".

Nhà văn tự do Terada Kenji viết kịch bản cho tác phẩm dựa trên câu chuyện của Sakaguchi. Trong số nhà phát triển khác có nhà thiết kế đồ họa Shibuya Kazuko, lập trình viên Yoshii Kiyoshi và Narita Ken, cũng như lập trình viên sửa lỗi Ito Hiroyuki. Khi dự án bắt đầu có triển vọng, nhà thiết kế Tanaka Hiromichi và "B-Team" của ông đã tham gia hỗ trợ phát triển. Sau khi bản địa hóa của Dragon Quest thành công ở Bắc Mỹ, Nintendo Hoa Kỳ dịch Final Fantasy sang tiếng Anh và xuất bản ở Bắc Mỹ vào năm 1990. Phiên bản Bắc Mỹ của Final Fantasy đạt được thành công khiêm tốn, một phần là do chiến thuật tiếp thị quá lố của Nintendo khi đó. Tác phẩm không bán phiên bản nào ra thị trường khu vực PAL cho đến khi Final Fantasy Origins phát hành vào năm 2003.

Tiêu đề

Trong nhiều năm, một số giả thuyết nổi lên xoay quanh lí do tại sao trò chơi có tên gọi là Final Fantasy. Vào năm 2015, Sakaguchi nói rằng, ngay từ đầu, đội ngũ sản xuất muốn tên của tác phẩm có thể rút gọn thành . Theo cách đó, tiêu đề của game có thể viết tắt bằng hệ thống bảng chữ cái Latinh và phát âm bằng bốn âm tiết theo ngôn ngữ Nhật Bản. Sakaguchi đã định đặt tiêu đề gốc cho tác phẩm là Fighting Fantasy, nhưng tiêu đề phải thay đổi để tránh trùng tên với một trò chơi trên bàn từng phát hành. Phiên bản trò chơi có quyền truy cập vào dung lượng lưu trữ gần gấp ba lần so với phiên bản Famicom của Nintendo, nhưng gặp phải các vấn đề không xuất hiện trong phương tiện hộp ROM của Nintendo, chẳng hạn như thời gian tải game có thể dễ dàng nhận thấy. Ngoài ra còn có nâng cấp nhỏ về đồ họa, có sự cải thiện về bản nhạc và hiệu ứng âm thanh.

Năm 1994, Final Fantasy I ・ II (tổng hợp của Final FantasyFinal Fantasy II) phát hành cho hệ máy Famicom. Phiên bản này chỉ phát hành ở Nhật Bản và có rất ít cập nhật về đồ họa.

Bản làm lại cho hệ máy WonderSwan Color phát hành tại Nhật Bản vào ngày 9 tháng 12 năm 2000 và có một số thay đổi như đồ họa chi tiết hơn, soundtrack được remix, bổ sung thêm chuỗi video chuyển động đầy đủ, thư viện hình minh họa của Amano Yoshitaka và chức năng lưu bộ nhớ game. Vào ngày 18 tháng 12 năm 2012, bản port được phát hành lại như một phần của bản phát hành Final Fantasy 25th Anniversary Ultimate Box.

Final Fantasy I & II: Dawn of Souls, giống như Final Fantasy Origins, là bản port của hai tác phẩm đầu tiên trong loạt trò chơi và phát hành cho hệ máy Game Boy Advance vào năm 2004. Phiên bản Dawn of Souls kết hợp nhiều yếu tố mới khác nhau, bao gồm bốn dungeon bổ sung, bestiary được cập nhật và một vài thay đổi nhỏ.

Square Enix đã phát hành phiên bản Final Fantasy cho hai mạng điện thoại di động Nhật Bản vào năm 2004; phiên bản cho dòng điện thoại NTT DoCoMo FOMA 900i ra mắt vào tháng 3 với tựa đề Final Fantasy i và bản phát hành tiếp theo cho điện thoại tương thích CDMA 1X WIN ra mắt vào tháng 8. Phiên bản tiêu chuẩn khác phát hành cho điện thoại SoftBank Yahoo! Keitai vào ngày 3 tháng 7 năm 2006. Tác phẩm có đồ họa tinh tế hơn so với trò chơi 8-bit ban đầu, nhưng không cao cấp như nhiều bản port console và thiết bị cầm tay sau này.

Square Enix lên kế hoạch phát hành phiên bản này cho điện thoại di động Bắc Mỹ vào năm 2006, nhưng trì hoãn đến năm 2010 và được Namco hợp tác phát hành. Phiên bản vẫn giữ nguyên độ khó và hệ thống phép thuật dựa trên "cấp độ nhân vật" từ phiên bản Famicom gốc. Bổ sung thêm yếu tố khác như cập nhật đồ họa, mượn tên thần chú và quái vật từ phiên bản Game Boy Advance / Wonderswan Color, không tích hợp dungeon, quái vật và món đồ bổ sung có trong phiên bản GBA. Dữ liệu game được lưu như trong phiên bản Famicom gốc (bằng cách sử dụng Lều, Túi ngủ và Căn Nhà hoặc đi vào nhà trọ). Tuy nhiên, phiên bản lúc bấy giờ có ba khe lưu game (game slot) và người chơi có thể sử dụng tùy chọn "Lưu tạm thời" (Temporary Save) trong trò chơi.

Nhân dịp kỷ niệm 20 năm ra mắt Final Fantasy, Square Enix làm lại Final FantasyFinal Fantasy II cho hệ máy PlayStation Portable. Tác phẩm phát hành tại Nhật Bản và Bắc Mỹ vào năm 2007, và ở vùng lãnh thổ châu Âu vào năm 2008. Phiên bản PSP có đồ họa 2D với độ phân giải cao hơn, chuỗi video chuyển động đầy đủ, soundtrack được remix và một dungeon mới cũng như dungeon bổ sung từ phiên bản Dawn of Souls. Kịch bản phiên bản làm lại giống như trong phiên bản Dawn of Souls, ngoại trừ việc bổ sung thêm dungeon mới.

Square Enix phát hành phiên bản NES gốc của game cho dịch vụ Virtual Console của Wii ở Nhật Bản vào ngày 26 tháng 5 năm 2009, ở Bắc Mỹ vào ngày 5 tháng 10 năm 2009, và ở khu vực PAL dưới dạng nhập khẩu vào ngày 7 tháng 5 năm 2010.

Vào ngày 25 tháng 2 năm 2010, Square Enix phát hành phiên bản iOS của Final Fantasy dựa trên bản port PSP với điều khiển cảm ứng trên toàn thế giới. Vào ngày 13 tháng 6 năm 2012, Square Enix phát hành phiên bản Windows Phone dựa trên phiên bản iOS. Vào ngày 27 tháng 7 năm 2012, Square Enix phát hành bản port Android, phần lớn dựa trên phiên bản iOS mặc dù thiếu dungeon mới của phiên bản kỷ niệm 20 năm (20th-anniversary edition).

Vào ngày 11 tháng 11 năm 2016, trò chơi (cùng với 29 trò chơi khác) được đưa vào phiên bản NES Classic Edition / Nintendo Classic Mini: Nintendo Entertainment System do Nintendo phát hành.

Đón nhận

Final Fantasy được các nhà phê bình đón nhận nồng nhiệt và là thành công về mặt thương mại. Phiên bản NES gốc đã xuất xưởng 520.000 bản tại Nhật Bản. Tính đến ngày 31 tháng 3 năm 2003, tất cả bản phát hành lại và làm lại của trò chơi vào thời điểm đó đã xuất xưởng 1,99 triệu bản trên toàn thế giới, trong đó 1,21 triệu bản xuất xưởng ở Nhật Bản và 780.000 bản ở nước ngoài. Tính đến ngày 19 tháng 11 năm 2007, một phiên bản PlayStation Portable khác đã xuất xưởng 140.000 bản.

Các biên tập viên tại IGN xếp Final Fantasy ở vị trí thứ 11 trong số những trò chơi NES hay nhất, gọi hệ thống lớp nhân vật của game là đa dạng và ca ngợi việc sử dụng phương tiện một cách thuận lợi để di chuyển trên bản đồ thế giới. GamesRadar xếp tác phẩm ở vị trí thứ 8 trong số những trò chơi NES hay nhất từng được làm ra. Nhân viên của trang web cảm thấy rằng trong khi Dragon Warrior đóng vai trò giới thiệu đến người chơi thể loại game nhập vai thì Final Fantasy góp phần truyền bá rộng rãi. Vào năm 2004, độc giả của Retro Gamer bình chọn Final Fantasy ở vị trí thứ 93 trong số những trò chơi phục cổ hàng đầu. Nhân viên của tạp chí lưu ý rằng "mặc dù chất lượng hình ảnh còn kém và nhiệm vụ tương đối đơn giản nhưng nhiều người chơi vẫn coi bản gốc là bản hay nhất (ngoại trừ FFVII)." Năm 2006, Final Fantasy xuất hiện trong danh sách 100 trò chơi hay nhất của tạp chí Famitsu khi độc giả của tạp chí bình chọn nó ở vị trí thứ 63 trong số những game hay nhất mọi thời đại. Người dùng của GameFAQs lập một danh sách tương tự vào năm 2005, và xếp Final Fantasy ở vị trí thứ 76. Nintendo Power xếp game ở vị trí thứ 49 trong danh sách 200 trò chơi dựa trên hệ thống Nintendo hay nhất. Vào năm 2008, Nintendo Power xếp tác phẩm là trò chơi điện tử hay thứ 19 của nền tảng Nintendo Entertainment System và khen ngợi trò chơi thiết lập nên nguyên tắc cơ bản của game nhập vai hệ máy console cùng với Dragon Warrior, đồng thời nêu các ví dụ điển hình như câu chuyện có tính sử thi, hệ thống thăng cấp, trận chiến đụng độ ngẫu nhiên và lớp nhân vật.

Final Fantasy là một trong những trò chơi điện tử nhập vai hệ máy console thời kỳ đầu có tầm ảnh hưởng nhất và đóng vai trò quan trọng trong việc chính thống hóa và phổ biến thể loại game này. Theo Matt Casamassina của trang web IGN thì tình tiết truyện của Final Fantasy có chiều sâu và hấp dẫn hơn so với bản gốc Dragon Quest (được gọi là Dragon Warrior ở Bắc Mỹ). Các nhà phê bình hiện đại chỉ ra rằng trò chơi có nhịp độ kém so với tiêu chuẩn đương đại và tốn nhiều thời gian đi lang thang trong thế giới game để tìm kiếm trận chiến đụng độ ngẫu nhiên nhằm thăng cấp và kiếm tiền hơn là khám phá và giải câu đố. Một reviewer khác nhận thấy phần khám phá và xây dựng cấp độ (level-building) của game là phần thú vị nhất. Năm 1987, Famitsu ban đầu mô tả Final Fantasy gốc là "một trong số nhiều [tác phẩm]" mô phỏng theo công thức của Dragon Quest. Một số người chơi đánh giá tác phẩm là phần tệ nhất và khó chơi nhất trong series trò chơi.

Phiên bản kế thừa của Final Fantasy nhận được hầu hết đánh giá tích cực từ các phương tiện truyền thông. Peer Schneider của trang web IGN rất thích phiên bản WonderSwan Color, ông ca ngợi cải tiến về mặt đồ họa, đặc biệt là chất lượng môi trường, nhân vật và quái vật. Final Fantasy Origins nhìn chung được đón nhận nồng nhiệt. GamePro cho rằng âm nhạc của game là "tuyệt vời" và đồ họa có "sự hoài cổ cuốn hút phù hợp với chúng." Đánh giá dành cho Final Fantasy I & II: Dawn of Souls nhìn chung là tích cực. Jeremy Dunham của IGN dành lời khen ngợi đặc biệt cho bản dịch tiếng Anh được cải thiện và nói rằng nó tốt hơn bất kỳ phiên bản nào trước đây của trò chơi. Mặt khác, phiên bản PlayStation Portable không được đánh giá cao như các phiên bản trước. Kevin VanOrd của GameSpot chỉ ra phần hình ảnh là điểm được cải thiện nhiều nhất, nhưng thấy rằng những trận chạm trán ngẫu nhiên và phần đồ họa bổ sung không đem lại thêm nhiều giá trị. Nintendo Power xếp nhóm tác phẩm Dawn of Souls ở vị trí thứ 76 trong danh sách 200 trò chơi hay nhất. Một số bản nhạc từ trò chơi gốc đóng vai trò quan trọng trong việc định hình series, có thể kể đến như "Prelude" (Khúc dạo đầu), bản arpeggio phát trên màn hình tiêu đề; "Opening Theme" (Nhạc chủ đề mở đầu) phát khi cả nhóm đi qua cây cầu đầu tiên trong game và sau này là nhạc chủ đề của dòng trò chơi Final Fantasy; và "Victory Fanfare" (Nhạc hiệu chiến thắng) phát mỗi khi nhóm nhân vật giành được thắng lợi trong trận chiến. Mô típ mở đầu của nhạc chủ đề chiến đấu cũng được sử dụng lại trong nhiều tác phẩm về sau. Brian Clevinger tạo ra 8-Bit Theater, một trang truyện tranh web dựa trên sprite, nhại lại trò chơi và trở nên rất phổ biến trong cộng đồng "game thủ" kể từ khi được ra mắt vào tháng 3 năm 2001.

Yếu tố từ trò chơi điện tử Final Fantasy cũng xuất hiện trong series trò chơi đối kháng: Dissidia Final Fantasy, Dissidia 012 Final FantasyDissidia Final Fantasy NT. series chỉ định Chiến binh Ánh sáng (theo thiết kế của Amano Yoshitaka) là nhân vật chính diện và Garland là nhân vật phản diện đại diện cho Final Fantasy. Warrior of Light (Chiến binh Ánh sáng) được Seki Toshihiko lồng tiếng cho phiên bản tiếng Nhật và Grant George cho phiên bản tiếng Anh, trong khi Garland được Utsumi Kenji (Dissidia Final Fantasy012 Dissidia Final Fantasy) và Ishii Kōji (Dissidia Final Fantasy NT) lồng tiếng cho phiên bản tiếng Nhật và Christopher Sabat cho từng phiên bản tiếng Anh. Tất cả tác phẩm đều bổ sung thông tin nền về thế giới của Final Fantasy. Ví dụ, Dissidia 012 Final Fantasy đặt tên cho thế giới của Final Fantasy là "World A" để phân biệt với World B, thế giới của Dissidia. Nhân vật và âm nhạc trong Final Fantasy cũng xuất hiện trong series game âm nhạc Theatrhythm Final Fantasy.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là trò chơi điện tử nhập vai kỳ ảo do Square phát triển và xuất bản vào năm 1987. Đây là tác phẩm đầu tiên thuộc dòng trò chơi _Final Fantasy_ của Square do Sakaguchi
là một dòng trò chơi điện tử nhập vai khoa học kỳ ảo và thương hiệu truyền thông của Nhật Bản do Sakaguchi Hironobu tạo ra. Loạt trò chơi được phát triển và thuộc sở
**_Final Fantasy IV_**, còn được gọi là **_Final Fantasy II_** trong bản phát hành đầu tiên ở Bắc Mỹ, là một trò chơi điện tử nhập vai do Square (nay là Square Enix) phát triển
sinh ngày 21 tháng 3 năm 1959, là một nhà soạn nhạc nổi tiếng người Nhật Bản. Ông nổi tiếng với chức danh nhà soạn nhạc chính trong loạt trò chơi điện tử Final Fantasy.
là một nhân vật hư cấu trong loạt game Final Fantasy, và là nhân vật chính của Final Fantasy IX. Cậu được Hironobu Sakaguchi nghĩ ra và định hình tính cách, trong khi ngoại hình
Trong lịch sử trò chơi điện tử, **kỷ nguyên thế hệ thứ sáu** (đôi khi được gọi là **kỷ nguyên** **128 bit**; xem "bit và sức mạnh hệ thống" bên dưới) đề cập đến máy
**Nhạc chủ đề** là nhạc phẩm thường được sáng tác hoặc lựa chọn sử dụng cho một chương trình phát thanh, chương trình truyền hình, video game hay điện ảnh, và thường được sử dụng
sinh ngày 30 tháng 5 năm 1979, là một ca sĩ và diễn viên lồng tiếng Nhật Bản (seiyū), sinh ra ở Osaka và lớn lên ở Kumamoto. Kugimiya được biết nhiều với vai trò
thumb|Máy PSP-1000 Đây là **danh sách trò chơi** của máy chơi trò chơi điện tử cầm tay **PlayStation Portable** của Sony. Không bao gồm PSOne classics hoặc PS mini. Trò chơi đã được phát hành
**_Chrono Trigger_** là một trò chơi điện tử nhập vai năm 1995 do Square phát triển và phát hành cho hệ máy SNES. Sản phẩm là phần đầu tiên của loạt trò chơi _Chrono_. Nhóm
là công ty phát triển trò chơi điện tử, ban đầu trực thuộc Namco (sau này là Bandai Namco), và được mua lại bởi Nintendo vào năm 2007. Công ty được thành lập năm 1999
**_Dragon Quest_** (trước năm 2005 có tên là **_Dragon Warrior_** khi phát hành tại Bắc Mỹ,) là loạt trò chơi nhập vai Nhật Bản do Horii Yuji sáng tạo ra. Loạt trò chơi đều do
là một diễn viên lồng tiếng, ca sĩ và người dẫn chương trình người Nhật Bản hợp tác với Aoni Production. Anh nổi tiếng với các vai như Matō Shinji trong loạt phim _Fate_, Osomatsu
**Danh sách trò chơi Wii** trải dài từ khi ra mắt năm 2006 đến khi trò chơi cuối cùng phát hành năm 2020. Có 1596 trò chơi, một số không được phát hành, dành cho
**Trò chơi điện tử nhập vai** (tiếng Anh thường gọi là **role-playing game** hoặc viết tắt là **RPG,** tương tự với **computer role-playing game** và **CRPG**) là một thể loại trò chơi điện tử mà
, sinh ngày 18 tháng 6 năm 1973, là một nữ seiyū từ Kamifukuoka, Saitama (bây giờ là Fujimino). Hiện nay, cô là hội viên của Dự án Genki. Cô có nhóm máu O, say
Đây là danh sách tất cả trò chơi điện tử trên Wikipedia, được sắp xếp theo các phân loại khác nhau. ## Theo hệ máy ### Acorn * Danh sách trò chơi Acorn Electron ###
là một xưởng phim anime Nhật Bản, thành lập vào năm 1972 bởi các cựu nhân viên của Mushi Pro, gồm có Maruyama Masao, Dezaki Osamu, Kawajiri Yoshiaki. Madhouse đã tạo và giúp sản xuất
là một nữ diễn viên lồng tiếng người Nhật đến từ Tokyo và trực thuộc Sony Music Artists. Cô khởi đầu sự nghiệp lồng tiếng vào năm 2017 với một vai phụ trong _Eromanga Sensei_.
**AAA** (hay **Triple-A**) là một cách phân loại trò chơi điện tử không chính thức bao gồm những trò chơi được sản xuất và phân phối bởi các hãng phát hành vừa và lớn với
**_Kyo Kara Maou!_** (tiếng Nhật: 今日からマ王; còn được viết là **Kyo Kara Maoh!**) là một anime được dựng từ tiểu thuyết _Kyo Kara Ma no Tsuku Jiyuugyou_ của tác giả Takayabashi Tomo. Nó còn có
Trò chơi **hành động** **nhập vai** (viết tắt là **RPG hành động** hoặc **ARPG**) là một nhánh con của trò chơi điện tử kết hợp các yếu tố cốt lõi từ cả thể loại hành
**John William DiMaggio** (, sinh ngày 4 tháng 9 năm 1968) là một nam diễn viên người Mỹ. Ông được biết tới qua các vai lồng tiếng như: Bender trong _Futurama_, Jake the Dog trong
**The Game Awards 2022** là một chương trình trao giải vinh danh trò chơi điện tử năm 2022 hay nhất. Sự kiện do Geoff Keighley tổ chức, ông là người sáng tạo và cũng là
**Langrisser** (ラングリッサー) là series video game chiến thuật gồm 5 phần chính của hãng Masaya với phiên bản đầu tiên được phát hành vào ngày 26 tháng 04 năm 1991 trên hệ máy Mega Drive.
là một nữ diễn viên lồng tiếng và ca sĩ Nhật Bản, trước đây trực thuộc Space Craft Entertainment. Cô giành được giải Nữ diễn viên tân binh xuất sắc nhất tại Lễ trao giải
**Sir Patrick Steward** (sinh ngày 13 tháng 7 năm 1940) là một diễn viên người Anh có sự nghiệp kéo dài sáu thập kỷ trong nhiều tác phẩm sân khấu, truyền hình, điện ảnh và
**River Jude Phoenix** (23 tháng 8 năm 1970 – 31 tháng 10 năm 1993) là một diễn viên, nhạc sĩ và nhà hoạt động xã hội người Mỹ. Anh là anh trai của Rain Phoenix,
Ban nhạc rock người Anh The Beatles thường được coi là ban nhạc quan trọng và có ảnh hưởng nhất trong lịch sử âm nhạc đại chúng. Với đội hình bao gồm John Lennon, Paul
**Katheryn Elizabeth Hudson** (sinh ngày 25 tháng 10 năm 1984), thường được biết đến với nghệ danh **Katy Perry**, là một nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc và nhân vật truyền hình người Mỹ.
**M.o.v.e** (viết cách điệu là **m.o.v.e** hay **M.O.V.E**, và trước đây là **move**) là một ban nhạc Nhật Bản gồm ba thành viên: ca sĩ **Yuri** (), **Motsu** () làm rapping, và nhà sản xuất
là một diễn viên lồng tiếng (seiyū) người Nhật sinh ra tại Arakawa, Tōkyō. Hiện cô đang làm việc cho Aoni Production. ## Vai diễn nổi bật * Công chúa Apricot trong _Bosco Adventure_ (1986)
**_Xenoblade Chronicles_** là trò chơi thuộc thể loại hành động nhập vai, thế giới mở do Monolith Soft phát triển và Nintendo phát hành cho hệ máy Wii. Trò chơi ban đầu được phát hành
**Đại nhạc hội OFF** là một chuỗi lễ hội âm nhạc được tổ chức thường niên từ năm 2006. Cho đến năm 2009, nó được tổ chức tại Công viên Słupna ở Mysłowice, Ba Lan
**Lara Fabian**, tên thật là **Lara Sophie Katy Crokaert** (sinh ngày 9 tháng 1 năm 1970), là một nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Bỉ-Canada. Cô sinh ra ở Etterbeek, Bruxelles và có
**_Hồ thiên nga_** ( ), là vở ballet số 20 của nhà soạn nhạc Pyotr Ilyich Tchaikovsky, sáng tác khoảng năm 1875–1876. Mặc dù ban đầu, vở ballet gặp thất bại, nhưng hiện nay nó
**Âm nhạc Nhật Bản** bao gồm nhiều thể loại với nhiều cách thể hiện khác nhau trong cả âm nhạc hiện đại lẫn truyền thống. Âm nhạc trong tiếng Nhật gọi là 音楽 (_ongaku_), là
**_Adventure Time_** (tiếng Việt: **Giờ phiêu lưu**) là loạt phim hoạt hình giả tưởng của Mỹ sáng tác bởi Pendleton Ward cho kênh Cartoon Network. Phim là sự hợp tác sản xuất giữa Frederator Studios
**Gackt Camui** (Kanji: 神威 楽斗, Romaji: Kamui Gakuto, sinh ngày 4 tháng 7 năm 1973 tại Okinawa, Nhật Bản), hay còn được biết đến với nghệ danh **GACKT**, là một ca sĩ - nhạc sĩ,
**Nintendo DSi** là một máy chơi trò chơi cầm tay hai màn hình do Nintendo phát hành. Máy chơi trò chơi này ra mắt tại Nhật Bản vào ngày 1 tháng 11 năm 2008 và
là một seiyū rất được ưa thích tại Nhật Bản. Là một diễn viên tài năng, Kuwashima có thể đảm nhận rất nhiều vai diễn đa dạng, từ vai các cậu bé đến những người
là một visual novel do hãng phần mềm Key phát triển, công ty này cũng cho ra đời hai tác phẩm nổi tiếng khác là _Kanon_ và _AIR_. Key phát hành phiên bản giới hạn
Đây là **danh sách các nghệ sĩ indie pop**. Danh sách này không bao gồm các ban nhạc địa phương ít được biết đến. Ban nhạc được liệt kê theo chữ cái đầu tiên trong
**James Jonah Cummings** (sinh ngày 3 tháng 11 năm 1952) là một diễn viên lồng tiếng và ca sĩ người Mỹ, đã từng xuất hiện trong gần 400 vai diễn khác nhau. Ông được biết
**Nishikawa Takanori** (tiếng Nhật: 西川貴教; Hán-Việt: **Tây Xuyên Quý Giáo**; sinh ngày 19 tháng 9 năm 1970 tại Shiga, Nhật Bản) là một ca sĩ bắt đầu nghề nghiệp của mình từ việc hát nhạc
**Bộ Đà điểu** (**Struthioniformes**) là một bộ gồm các loài chim lớn, không biết bay có nguồn gốc từ Gondwana, phần lớn trong chúng hiện nay đã tuyệt chủng. Không giống như các loài chim
**Vương Phi** (tiếng Hán: 王菲, tiếng Anh: _Faye Wong_) (sinh ngày 8 tháng 8 năm 1969) là nữ ca sĩ, nhạc sĩ Hồng Kông gốc Trung Quốc. Trước năm 1985, cô còn có nghệ danh
là một nữ ca sĩ người Nhật Bản. Cô sinh ngày 18 tháng 12 năm 1987 tại Moriguchi, Osaka, Nhật Bản, lên Tokyo và bắt đầu sự nghiệp nghệ thuật từ năm 2006. Với ca