✨Dân ca, dân vũ Đông Anh
Dân ca Đông Anh hay Dân ca, dân vũ Đông Anh hay ngũ trò Viên Khê là hệ thống các trò diễn xướng đi kèm các bài dân ca, lưu hành tại thôn Viên Khê, xã Đông Khê (trước đây thuộc xã Đông Anh cũ) và vùng phụ cận, thuộc thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Các trò diễn Đông Anh được xếp vào các hình thức diễn xướng dân gian tiêu biểu của xứ Thanh, cùng với tổ khúc hò sông Mã và trò Xuân Phả. Các trò diễn Đông Anh phản ánh đời sống sinh hoạt và tâm tư tình cảm của người nông dân Việt Nam xưa. Những lời ca như: Lên chùa bẻ một cành sen/ Ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng... đã trở nên quen thuộc với nhiều người dân Việt Nam.
Ngũ trò Viên Khê đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia từ ngày 11 tháng 9 năm 2017.
Nguồn gốc
Các trò diễn ở Đông Anh có thể có từ thời Bắc thuộc (nhà Tùy), do Chàng Cả Đại Vương, con trai của Lê Ngọc (thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Lê Ngọc) truyền cho dân chúng. Năm trò diễn nói trên cũng là toàn bộ các trò của trò Xuân Phả, riêng trò Ai Lao chưa thấy có trong hệ thống trò diễn Đông Anh. Mặt khác, số trò diễn ở Đông Anh không dừng lại ở con số 5 như tên gọi ngũ trò, các trò diễn có thể hình thành thêm trong quá trình hội lễ và lịch sử.
Phạm vi
Các điểm lưu hành Dân ca Đông Anh (trò Viên Khê) và tương quan với trò Rủn, trò Bôn
Chàng Cả đại vương là con trai của Cao Hoàng, một người gốc Trung Quốc, được Cao Hoàng giao cai trị vùng đất mà cho đến thời Lê-Nguyễn là chín thôn xã: Viên Khê, Doãn Xá, Xuân Lưu, Cáo Thôn, Phúc Hậu, Phù Lưu, Viễn Dương, Mao Xá, Đại Nẫm thuộc ba tổng Tuyên Hóa, Quảng Chiếu, Thanh Khê, nay thuộc các xã Đông Khê, Đông Thịnh, Đông Minh, thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn và phường Đông Tân, thành phố Thanh Hóa.
Vào cuối thời Nguyễn (đầu thế kỉ 20), các thôn xã nêu trên chủ yếu thuộc tổng Tuyên Hóa (đầu thời Nguyễn là một phần tổng Lê Nguyễn), trừ Phù Lưu thuộc tổng Quảng Chiếu, Mao Xá và Đại Nẫm thuộc tổng Thanh Khê và Viễn Dương chưa xác định rõ thuộc tổng nào. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), tổng Tuyên Hóa được đổi thành xã Tuyên Hóa và đến năm 1948, xã Tuyên Hóa được đổi thành xã Đông Anh, huyện Đông Sơn. Tên gọi dân ca Đông Anh được lấy theo tên xã Đông Anh.
Đến cuối năm 1953, xã Đông Anh được chia thành các xã Đông Anh (mới), Đông Xuân, Đông Thịnh. Trong số đó, toàn bộ bốn thôn của xã Đông Xuân (gồm Xuân Lưu, Cáo Thôn, Phúc Hậu và Nhuệ Sâm - thuộc Doãn Xá) thuộc chín thôn xã từng lưu truyền dân ca Đông Anh (hiện nay các làng này là các khu phố thuộc thị trấn Rừng Thông). Tuy nhiên, đến cuối thế kỉ 20, chỉ có làng Viên Khê thuộc xã Đông Anh và một số làng thuộc xã Đông Thịnh (xã Doãn Xá cũ) bảo tồn được những điệu dân ca, dân vũ này.
Hệ thống trò diễn
Các trò diễn Đông Anh được gọi là ngũ trò Đông Anh hay ngũ trò Viên Khê. Gọi là ngũ trò nhưng thực ra trò diễn Đông Anh gồm 12 trò là: trò Múa đèn, trò Tiên Cuội (hay Tiên phường), trò Tô Vũ, trò Trống Mõ, trò Thiếp, trò Vằn vương (hay trò Hùm), trò Thủy (hay Thủy phường), trò Leo dây, trò Xiêm Thành (hay Chiêm Thành/Sim Thành), trò Hà Lan (hay Hoa Lang), trò Tú Huần (hay Lục Hồn Nhung), trò Ngô quốc. Ngoài ra ở Đông Anh còn có một số tiết mục nữa như trò Đại Thánh, trò Nữ quan... và Ngũ trò Bôn ở kẻ Bôn, nay thuộc xã Đông Thanh, gồm các trò: Ngô phường, Lan phường, Tiên phường, Thủy phường, Lăng ba khúc (các xã Đông Khê, Đông Thanh vào đầu thời Nguyễn thuộc tổng Thạch Khê, giáp giới tổng Lê Nguyễn và cùng thuộc huyện Đông Sơn).
Trò Xuân Phả hay trò Láng (xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) cũng có các trò Chiêm Thành, trò Hoa Lang, trò Lục Hồn Nhung, trò Ngô quốc nhưng hình thức thể hiện có khác nhiều.
Trò Múa đèn
Trò Múa đèn hay còn gọi là tổ khúc Múa đèn, là trò diễn tiêu biểu nhất của ngũ trò Viên Khê. Tổ khúc được chia thành nhiều bài, gồm:
Thắp đèn Luống bông, luống đậu Vãi mạ Chẻ lạt đan lừ
Nhổ mạ Đi cấy Kéo sợi Dệt cửi
Vá may Cửa đóng then cài Dâng quạt Đi gặt
Một số tài liệu không ghi nhận các bài Cửa đóng then cài và Dâng quạt mà thay bằng các bài Đánh gà luộc, Cúng cơm mới và Dâng oản.
Các bài trong tổ khúc phản ánh chu trình sản xuất theo mùa vụ nông nghiệp. Khi biểu diễn, 12 con trò (là các cô gái) đội trên đầu đĩa đèn dầu lạc (ngày nay thay bằng đĩa nến), vừa hát vừa thực hiện các động tác múa rất uyển chuyển mà không làm đèn rơi xuống. Xen giữa 10 bài là đầu tiên là xướng và đế, các bài cuối: Đánh gà luộc, Cúng cơm mới và Dâng oản chỉ múa mà không hát.
Một số lời ca tiêu biểu:
Bài Thắp đèn:
Sau chín tiếng trống, 12 con trò đồng thanh hát: ::''Thấp thoáng bóng ngọn đèn quang :''Còn không ta lấy, dở dang ta đừng ::''Trong nhà ta tứ ngày ràng rạng :''Lòng em lại muốn chơi trăng ngoài thềm ::''Muốn cho trong ấm ngoài êm
Lời xướng: Bà con ơi! Giờ đến tháng giêng, tháng hai ta đi luống bông, luống đậu phải không? Lời đế: Phải rồi. Sau đó chuyển sang bài tiếp theo (Luống bông, luống đậu).
Bài Vãi mạ: ::''Tay cầm nắm trấu tung ra :''Trấu nát ra tro, thịt nát ra giò, đậu nát ra tương
Bài Chẻ lạt đan lờ (còn gọi là Đan lờ): ::''Tay cầm dao mác, nắm nan :''Lên chùa thanh vắng ta đan cái lờ ::'' Bắt cá thả lờ, còn nhớ hay đã quên?. Những lời ca này có phần giống ca từ của làn điệu chèo tàu Lên chùa ở Đan Phượng, Hà Nội: ::''Tay cầm dao mác, thanh nan :'' Lên chùa thanh vắng ta đan cái xời ::''Không may xời đổ toi rơi :'' Cho cua bò mất anh thời về không…
Bài Đi cấy: ::''Lên chùa bẻ một cành sen :''Ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng ::''Ba bốn cô có hẹn cùng chăng? :''Thắp đèn ta sẽ chơi trăng ngoài thềm ::''Muốn cho trong ấm ngoài êm...
Một số biến thể được ghi nhận như: ::''Ba bốn o có "lệch" có "bợm" cùng chăng?
Hay: ::Ba bốn cô có "lệch" có "bợm" cùng chăng?
Bài Xe chỉ, vá may: ::'' Ngồi thềm xe chỉ, chỉ xe :''Xỏ kim, kim xỏ ngồi hè vá may... Một biến thể khác: ::'' Ngồi buồn xe chỉ, chỉ xe :'' Xỏ kim, kim xỏ, ngồi thềm vá may ::'' Lội sông khăn gói tay mang :'' Mồ hôi gió đượm thương chồng phải theo
Bài Cửa đóng then cài: ::'' Khăng khăng cửa đóng then cài :'' Cửa trong mắc khóa, cửa ngoài cài then ::'' Đôi ta còn lạ chưa quen :'' Tuy rằng cửa đóng mà then không cài.
Bài Đi gặt kết thúc cả tổ khúc với lời ca: ::''Bao giờ cho lúa bông vàng. :''Để anh đi gặt cho nàng mang cơm.
Trò Tiên Cuội
Con trò gồm chú Cuội và 12 tiên nữ. Sau khi gặp nhau bên hồ sen, Cuội yêu và lấy cô tiên đẹp nhất. Khi các cô tiên được Ngọc Hoàng gọi về trời, Cuội đau xót và chết. Các tiên nữ thương cảm liền quay lại làm phép cho Cuội hồi sinh. Tất cả cùng múa hát ngợi ca xóm làng.
Trò này thể hiện ước mong có một cuộc sống thanh bình no ấm ::''...Xuân vừa gặp tiết thiều quang :''Múa mừng dân xã thọ trường vinh hoa.
Sau đó là đoạn Tiên Cuội tỏ tình: ::''...Ô Kiều, ô thước bắc sang :''Chức Ngưu kia cũng một đoàn vầy vui.
Trò Tô Vũ
Cùng với trò Xiêm Thành, trò Tô Vũ không có lời ca. Các con trò gồm bốn ông bụt, một ông sư, một bà vãi đội nhang, một ông tô tượng đúc chuông. Các nhân vật múa các điệu chèo cạn, chèo sâu và chèo đua.
Trò Trống Mõ
Trò Trống Mõ có hai nhân vật mạt hạng trong làng là Trống và Mõ cùng với cu Nhớn, mẹ Mõ. Cuộc sống của người nông dân trong xã hội phong kiến được phản ánh sinh động thông qua những đoạn đối thoại dí dỏm
Trò Thiếp
Trò Thiếp được diễn tại nghè Sâm lần cuối cùng vào năm 1944. Từ tên trò đến lề lối, giọng điệu đều dựa vào tục đánh đồng thiếp, một tập tục mê tín xưa nhưng nội dung lại mang tính chế giễu tệ đồng cốt.
Các con trò gồm tín chủ, thầy cả và bốn phụ lễ, đều do nữ đóng, phục trang sặc sỡ. Các làn điệu được sử dụng: chúc, chầu văn, thỉnh. ::''Anh tài đủ mặt cùng nhau :''Đánh loài quỷ đói cụt đầu, cụt tay
Đồng thời, trò Thiếp còn có những bài nói thể hiện nội dung trữ tình
Lời ca như sau:
Mở đầu: ::''Mở cửa cho thủy tôi vào :''Đem trò trình lễ tiêu hao sự tình...
Giáo thuyền: ::''...Mừng nay khang thái ::''Vận mở dương hanh ::''Luyện tập thủy binh ::''Sử thuyền như sử mã...
Khai chèo: ::''Khen ai khéo mở ::''Gỗ dựng làm thuyền...
Đi chèo: :''...Mạn thuyền nghiêng đôi bên êm ái :''Mặc kẻ chèo người lái trước sau.
Giậm mái: ::''Chẳng giậm thì thuyền chẳng đi :''Giậm ra ván nát thuyền thì long đanh...
Chèo bay: ::''...Ta chèo một mái sang sông :''Rước lấy đô đốc quận công về đình...
Trò Xiêm Thành
Trò này không có lời ca. Một người đứng giữa cầm trống, các con trò đeo mặt nạ và phục trang, múa theo nhịp trống. Các vai diễn gồm: Hai anh Mõ, một áo đen, một áo xám, cả hai mang mặt nạ nhỏ, xương xương, cầm mõ đánh theo nhịp trống. Thầy thuốc: mặt nạ trán dô, mũi to, miệng rộng, môi hở, lè lưỡi chìa 4 răng ra ngoài, áo kiểu tuồng cổ. Mí Mẩn: Mặt nạ mũi gãy, miệng rộng, môi trên to, môi dưới mỏng, mặc áo thụng vàng. Anh Mếu: mặt nạ miệng mếu, áo thụng đỏ. *Người chết: mặt nạ hiền, màu xanh, áo thụng xanh.
Sau một hồi trống dồn, người chết nằm xuống đất, chết. Mếu, Mõ, Mí Mẩn đi mời thầy thuốc. Mí Mẩn nói: Thầy ơi thầy, xin thầy ba lạng vàng, thầy thuốc lắc đầu. Mí Mẩn lại nói: Thầy ơi thầy, xin thầy ba nắm xôi. Thầy thuốc gật đầu, chữa bệnh, người chết sống lại. Tất cả con trò vái và vào.
Trò Hà Lan
Con trò gồm một con kì lân, hai con ngựa, chúa và nhiều lính. Chúa cầm nhịp cho lính hát theo, âm điệu khỏe và nhịp nhàng. Chúa múa cờ lụa trắng, múa siêu đao, múa quạt, quân cũng múa theo. Lời ca chủ yếu chúc vua quan và mong đời sống yên bình.
Trò Tú Huần
Con trò gồm một mẹ và bốn con, đeo mặt nạ và vừa diễn các động tác như cày bừa, kiếm củi, học hành, chơi đùa, vừa hát theo nhịp trống đệm.
Lời ca như sau: ::''Túi anh những bạc cùng vàng :''Mượn thợ kéo nhẫn cho nàng đeo tay...
Trò Ngô quốc
Trò Ngô được chia làm ba cảnh, biểu diễn trọn một đêm. Cảnh 1: các con trò: thầy thuốc, thầy địa lý, thầy bói biểu diễn các động tác nghề nghiệp theo nhịp trống và sênh. Cảnh 2: thêm một ông lão Ngô (ông già người Tàu) đi bán kẹo, một cô gái mại dâm ghẹo lão Ngô và ba người đi bẻ ngô phụ họa cùng cô. Khi lão Ngô chết, cô mời thầy thuốc đến chữa, thầy địa lý cũng đòi chữa bệnh và lão Ngô sống lại. *Cảnh 3: thêm bốn ông bụt đeo mặt nạ, một ông sãi, một bà vãi, một ông tô tượng đúc chuông. Các con trò hát các bài chèo cạn, tô tượng, đúc chuông và diễn như trong trò Tô Vũ.
Lễ hội
Ngũ trò Viên Khê được tổ chức thành lễ hội quy mô lớn, vào thời Nguyễn có sự tham gia của 9 thôn xã: Viên Khê, Doãn Xá, Xuân Lưu, Cáo Thôn, Phúc Hậu, Phù Lưu, Viễn Dương, Mao Xá, Đại Nẫm. Lễ hội được tổ chức tại nghè Sâm. Thông thường, lễ hội được mở 3 năm một kỳ, vào các năm: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Ca dao trong vùng có câu: ::''Ba năm một khoá trò lề :''Lấy chồng hàng tổng thì về mà coi. ::''Ba năm một khoá trò chơi :''Đông tây nam bắc xin mời về quê. Vào các năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu, các làng trong vùng mở hội riêng thờ thần hoàng của làng, chọn trò dự lễ hội. Trò nào được đánh giá cao nhất trong tổng thì được làm chủ hội nghè Sâm.
Công việc tổ chức lễ hội được bắt đầu từ tháng chạp âm lịch trước năm có lễ hội nghè Sâm. Ăn Tết xong, các làng dựng áng ở khu vực trước nghè Sâm. Trước khi chính thức mở hội, các làng diễn 4 trò: Xiêm Thành, Hoa Lang, Tú Huần, Ngô quốc tại áng của làng mình, đầu tiên là làng Viên Khê sau đó là các làng còn lại
Từ năm 2002, Viện Âm nhạc Việt Nam đã chủ trì dự án "Khôi phục văn hóa phi vật thể", trong đó đã tổ chức khôi phục lại một số trò diễn. Đến năm 2006, đã khôi phục được hai trò là trò Trống Mõ và trò Thiếp, cùng với ba trò diễn đã được khôi phục từ trước khi có dự án.
Đến năm 2009, đã khôi phục được 10 trò diễn gồm: Múa đèn, Tiên Cuội, Nữ quan, Trống Mõ, Bắt cọp, Thiếp, Ngô, Hà Lan, Thủy, Thủy phường. Các trò Tú Huần, Sim Thành đang được tiếp tục khôi phục.
Tính đến cuối năm 2011, đã sưu tầm, nghiên cứu khôi phục lại 12 trong số 13 trò diễn. Trong đó, trò Lăng Ba Khúc đang sưu tầm thêm tư liệu lời múa, điệu hát. Tại xã Đông Anh, đã có 10 câu lạc bộ được thành lập ở các trường học, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên, hội phụ nữ... trong xã.