nhỏ|225x225px| Chữ Vạn là một biểu tượng có nhiều kiểu dáng và ý nghĩa, và có thể được tìm thấy trong nhiều nền văn hóa.
nhỏ| Tượng của [[Kỳ Na giáo|Jain Tirthankara Suparshvanath, với biểu tượng chữ Vạn ở phía trước (thế kỷ 14) ]]
Chữ Vạn hoặc swastika 卐 / sauwastika 卍 là một hình dạng hình học và là một biểu tượng tôn giáo cổ xưa trong các nền văn hóa của Á-Âu. Nó được sử dụng như một biểu tượng của thần linh và tâm linh trong các tôn giáo Ấn Độ. Trong thế giới phương Tây, nó là biểu tượng của điềm lành và may mắn cho đến những năm 1930, khi nó bị lợi dụng thành một biểu tượng đặc trưng của Đức quốc xã như là một biểu tượng của bản sắc Aryan và do đó bị kỳ thị bởi sự phân biệt chủng tộc và chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.
Tên chữ Vạn (swastika) xuất phát từ tiếng Phạn (Devanagari: ) có nghĩa là 'có lợi cho hạnh phúc' hoặc 'tốt lành'. Trong Ấn Độ giáo, biểu tượng với cánh tay chỉ theo chiều kim đồng hồ (卐) được gọi là , tượng trưng cho ('Mặt trời'), thịnh vượng và may mắn, trong khi biểu tượng ngược chiều kim đồng hồ (卍) được gọi là , tượng trưng cho ban đêm hoặc khía cạnh Mật tông của Kali. Trong một số tôn giáo Ấn-Âu lớn, chữ Vạn tượng trưng cho những tia sét, đại diện cho thần sấm sét và vua của các vị thần, như Indra trong Ấn Độ giáo Vệ đà, Zeus trong tôn giáo Hy Lạp cổ đại, Jupiter trong tôn giáo La Mã cổ đại và Thor trong tôn giáo Đức cổ đại.
Chữ Vạn là một biểu tượng được tìm thấy rộng rãi trong cả lịch sử loài người và thế giới hiện đại. Biểu tượng này được tìm thấy trong các di tích khảo cổ của Văn minh Indus Valley và Mesopotamia, cũng như trong các tác phẩm nghệ thuật đầu tiên của người Byzantine và Thiên chúa giáo. Sự tôn trọng biểu tượng chữ Vạn trong các nền văn hóa châu Á, trái ngược với sự kỳ thị của biểu tượng phương Tây, đã dẫn đến các giải thích sai lầm và hiểu lầm.
Lịch sử
Ở Ấn Độ thời xưa, Phật giáo Bắc Truyền, Bà-la-môn, Kỳ na giáo, đều sử dụng chữ này. Đầu tiên, người Ấn Độ cho rằng phù hiệu nầy là sợi lông xoắn ở ngực của Brahma, Tỳ thấp nô (Phạn ngữ: Visnu), Cát Lật Sát Noa (Phạn: Krsna) và thông thường coi đây là dấu hiệu của sự tốt lành, thanh tịnh, tròn đầy.
Theo công trình nghiên cứu của tiến sĩ Quang Đảo Đốc ở trường đại học Quốc Sĩ Quán, Nhật Bản thì chữ Vạn vốn không phải là chữ viết. Bắt đầu từ thế kỷ thứ VIII trước Công Nguyên đã thấy ghi trong đạo Bà-la-môn ở lồng ngực của thần chú Tỳ Thấp Noa với ký hiệu là vátsa, cho tới thế kỷ thứ III trước Công Nguyên mới được dùng trong kinh Phật Bắc Truyền. Đến thế kỷ thứ nhất của Công Nguyên lại đổi tên thành svastiko, vốn là tướng hình trôn ốc túm lông đầu con trâu, lại biến thành lông ngực của thần chủ Tỳ Thấp Noa, sau đó trở thành một trong 16 tướng tốt, rồi lại thành một trong 32 tướng tốt.
thumb|Biểu tượng Chữ Vạn được sử dụng trên Quốc kỳ và Đảng kỳ của Đức Quốc xã.|250x250px
Theo kinh Trường A Hàm (kinh Phật Bắc Truyền), chữ Vạn là tướng tốt thứ 16 nằm trước ngực của Phật (Theo quan điểm của Phật Giáo Đại Thừa). Theo Đại Tất Già ni càn tử sở thuyết kinh quyển 6, chữ Vạn là tướng tốt thứ 80 của Thích Ca Mâu Ni, nằm trước ngực. Trong Thập địa kinh luận quyển 12 có nói, khi Bồ Tát Thích Ca chưa thành Phật, giữa ngực có tướng chữ Vạn kim cương, biểu thị công đức trang nghiêm. Nhưng Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm quyển 3 có nói đầu tóc của Phật cũng có 5 tướng chữ Vạn. Trong Hữu bộ Tỳ nại Da tạp sự quyển 29 nói: Ở lưng của Phật cũng có tướng chữ Vạn. Trong kinh Đại Bát Nhã quyển 381 nói rằng: chân tay và trước ngực của Phật đều có "Cát tướng hỷ toàn" để biểu thị công đức của Phật, tức là chữ Vạn.
Cưu Ma La Thập và Huyền Trang dịch chữ Vạn là chữ Đức, ngài Bồ Đề Lưu Chi thì dịch là chữ Vạn, biểu thị ý nghĩa công đức tràn đầy. Nhưng âm của chữ Srivatsalaksana ban đầu không được đưa vào kinh truyện, đến năm 639, thời Võ Tắc Thiên, mới đặt ra chữ này, đọc là Vạn và cho rằng chữ này có ý nghĩa là nơi nhóm hợp của muôn điều tốt lành.
Năm 1935 – Đức Quốc Xã ban hành luật tước đoạt quyền công dân của người Do Thái tại Đức và đổi quốc kỳ mới có chữ Vạn.
Một số người ngày nay cho rằng chữ Vạn như này (卍) là chữ vạn trong tôn giáo. Tuy nhiên, trong cờ hiệu của Adolf Hitler thì chữ vạn (như trong Quốc kỳ Đức Quốc xã) không được sử dụng mà thay vào đó là chữ vạn 卐.
👁️
4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|225x225px| _Chữ Vạn_ là một biểu tượng có nhiều kiểu dáng và ý nghĩa, và có thể được tìm thấy trong nhiều nền văn hóa. nhỏ| Tượng của [[Kỳ Na giáo|Jain _Tirthankara_ Suparshvanath, với biểu
thumb|Thiết kế Đá chữ Vạn **Đá Chữ Vạn** (tiếng Anh: _Swastika Stone_) là một viên đá có thiết kế gần giống với hình chữ Vạn và nằm trên Vách đá Woodhouse phía bắc Ilkley Moor
**Vạn Lý Trường Thành** (), gọi tắt là **Trường Thành**, là tên gọi chung cho nhiều thành lũy kéo dài hàng ngàn cây số từ Đông sang Tây, được xây dựng bằng đất và đá
Đèn trang trí dài 6mét +6 quả đèn lồng to siêu đẹp Trang trí ở cửa nhà, ban công, hoặc treo đâu trong nhà đều được Dây đèn dài 6m+ 6 quả đèn lồng có
**Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng** - còn được gọi là **Đảng Dân Xã** hay **Dân Xã Đảng Hòa Hảo**, là một đảng chính trị hoạt động ở miền Nam Việt Nam giai đoạn
**Chủ nghĩa quốc gia xã hội**, hay **Chủ nghĩa quốc xã** (, viết tắt là _Nazismus_) là hệ tư tưởng và những hành động của Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa
**Dòng thời gian sơ khai** của **chủ nghĩa Quốc xã** bắt đầu từ lúc thành lập cho đến khi Adolf Hitler lên nắm quyền (tháng 8 năm 1934). ## Ảnh hưởng từ thế kỷ 19
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
Tề Dượng vương **Vũ Văn Hiến** (chữ Hán: 宇文宪, 544 - 578), tên tự là **Bì Hà Đột**, người trấn Vũ Xuyên, Đại Quận , dân tộc Tiên Ti, là tướng lĩnh, hoàng thân nhà
**Vạn Thiến** (tên , tên tiếng Anh: **Regina Wan**, sinh ngày 14 tháng 5 năm 1982) là một nữ diễn viên và ca sĩ người Trung Quốc, tốt nghiệp Hệ Biểu diễn, Học viện Hý
**Tất Vạn** (chữ Hán: 毕万; ?-?), là vị tông chủ đầu tiên của họ Ngụy, đại phu của nước Tấn dưới thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, và cũng là tổ tiên của
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
phải|nhỏ|Năm 560
**Bắc Chu** (tiếng Trung: 北周) là một triều đại tiếp theo nhà Tây Ngụy thời Nam Bắc triều, có chủ quyền đối với miền Bắc Trung Quốc từ năm 557 tới năm
Chúng tôi luôn mong muốn chia sẻ và đem đến sự hài lòng cao nhất cho người bệnh trong quá trình chăm sóc và điều trị tại Bệnh viện Vạn Hạnh. Sự hài lòng và
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
**Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** là nền kinh tế chỉ huy theo mô hình xã hội chủ nghĩa của Liên Xô được áp dụng ở phía bắc vĩ tuyến 17, trong khu
**Bắc Tề Hậu Chủ** (北齊後主, 557–577), tên húy là **Cao Vĩ** (高緯), tên tự **Nhân Cương** (仁綱), đôi khi được đề cập đến với tước hiệu do Bắc Chu phong là **Ôn công** (溫公), là
nhỏ|phải|Chùa Xá Lợi, nơi đặt cơ sở đầu tiên của Viện Đại học Vạn Hạnh **Viện Đại học Vạn Hạnh** là viện đại học tư thục ở Sài Gòn do Giáo hội Phật giáo Việt
**Chu Vũ Đế** (chữ Hán: 周武帝; 543 - 21 tháng 6, 578) là Hoàng đế thứ ba của nhà Bắc Chu thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm
**Chi Cúc vạn thọ** (danh pháp khoa học: **_Tagetes_**) là một chi của khoảng 60 loài cây thân thảo một năm và lâu năm trong họ Cúc (Asteraceae). Chúng có nguồn gốc tại khu vực
**_Đường xa vạn dặm_** (tiếng Anh: **_The Road to Infinity_**) là dự án âm nhạc của nhạc sĩ Quốc Trung cùng ban nhạc Phương Đông được thực hiện vào đầu năm 2004. Đây chính là
**Kinh đô Vạn Lại – An Trường** hay còn gọi với các tên khác như **hành cung Vạn Lại**, **hành điện Vạn Lại**, **cố đô Vạn Lại**, là kinh đô của Đại Việt nam triều
**Bắc Chu Minh Đế** (北周明帝) (534–560), tên húy là **Vũ Văn Dục** (宇文毓), biệt danh **Thống Vạn Đột** (統萬突), là một vị hoàng đế của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Nguyễn Hữu Vạn** (sinh 1956) là cựu chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Tổng Kiểm toán Nhà nước Việt Nam. Ông có bằng Tiến sĩ Kinh tế và Cử nhân Lý luận chính trị
**Chủ nghĩa vô thần**, **thuyết vô thần** hay **vô thần luận**, theo nghĩa rộng nhất, là sự "thiếu vắng" niềm tin vào sự tồn tại của thần linh. Theo nghĩa hẹp hơn, chủ nghĩa vô
**Vạn Lý** (1 tháng 12 năm 1916-15 tháng 7 năm 2015) (giản thể: 萬里; phồn thể: 万里; bính âm: Wan Lǐ) sinh ra tại Sơn Đông; là trong một chính trị gia của Trung Quốc,
Các quốc gia trên thế giới có đặt căn cứ quân sự của Hoa Kỳ. **Chủ nghĩa đế quốc Mỹ** () là một thuật ngữ nói về sự bành trướng chính trị, kinh tế, quân
**Vạn Lý Trường Thành Cát** (tiếng Anh: _Great Wall of Sand_) là tên được sử dụng lần đầu tiên vào tháng 3 năm 2015 bởi Đô đốc Mỹ Harry Harris, Chỉ huy Hạm đội Thái
**Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến** (có tài liệu gọi là **Chính phủ Liên hiệp Quốc gia**) là chính phủ được thành lập vào ngày 2 tháng 3 năm 1946 dựa trên kết quả của
**Đồng** là tiền tệ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lưu dụng từ năm 1946 đến ngày 2 tháng 5 năm 1978. ## Bối cảnh lịch sử Tháng 8 năm 1945, Việt Minh giành
**Nhĩ Chu Triệu** (chữ Hán: 尔朱兆, ? – 533), tên tự là **Vạn Nhân**, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, là tướng lãnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy
**Nhĩ Chu Thiên Quang** (chữ Hán: 尒朱天光, 496 – 532), không rõ tên tự, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng lãnh,
**Dương Chu** (chữ Hán:楊朱, sống vào thời Chiến Quốc), tự **Tử Cư** (子居), được người đời sau kính trọng gọi là **Dương tử** (杨子), là một triết gia Trung Quốc. Ông đề ra thuyết "vì
**Chữ Hán**, còn gọi là **Hán tự**, **Hán văn****,** **chữ nho**, là loại văn tự ngữ tố - âm tiết ra đời ở Trung Quốc vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên. Ngôn
thumb|Tượng Chử Đồng Tử tại Đền Dạ Trạch **Chử Đồng Tử** () một nhân vật truyền thuyết, thần thoại và là một vị thánh nổi tiếng, sống ở thế kỷ thứ IV-III TCN (vào khoảng
:_Bài này nói về chủ nghĩa cộng sản như một hình thái xã hội và như một phong trào chính trị. Xin xem bài hệ thống xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản và chủ
**Chu Noãn Vương** (chữ Hán: 周赧王; trị vì: 335 TCN - 256 TCN), tên thật là **Cơ Diên** (姬延), là vị vua thứ 37 của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế
**Chu Công** (chữ Hán: 周公), tên thật là **Cơ Đán** (姬旦), còn gọi là **Thúc Đán** (叔旦), **Chu Đán** (週旦) hay **Chu Văn công** (周文公), là công thần khai quốc nhà Chu trong lịch sử
**Dân chủ tại Việt Nam** đề cập đến tình hình dân chủ và các vấn đề liên quan đến dân chủ tại Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Flag_of_the_Republican_People's_Party_(Turkey).svg|nhỏ|261x261px|Lục Tiễn **Chủ nghĩa Kemal** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kemalizm_), **chủ nghĩa Atatürk** (_Atatürkçülük, Atatürkçü düşünce_) hay **Lục Tiễn** (_Altı Ok_) là tư tưởng kiến quốc của Nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, theo Mustafa
**Chu Vũ Vương** (chữ Hán: 周武王, 1110 TCN - 1043 TCN, tên thật là **Cơ Phát** (姬發), nhật danh là **Vũ Đế Nhật Đinh** (珷帝日丁), là vị vua sáng lập triều đại nhà Chu trong
**Chu Mục Vương** (chữ Hán: 周穆王; 1027 TCN - 922 TCN) là vị quân chủ thứ năm của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 976 TCN đến năm 922
**Chư Prông** là một huyện biên giới cũ thuộc tỉnh Gia Lai, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Chư Prông nằm ở phía tây nam của tỉnh Gia Lai, có vị trí địa lý: *Phía
**Chư Păh** (đọc là _chư-pá_ ) là một huyện cũ nằm ở phía bắc tỉnh Gia Lai, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Chư Păh nằm ở phía bắc của tỉnh Gia Lai, có vị
phải|thumb|Lãnh thổ của [[người Hán từ lưu vực Hoàng Hà đã bành trướng sang các lãnh thổ lân cận.]] **_Chủ nghĩa đế quốc Trung Hoa_** (giản thể: **中华帝国主义**, phồn thể: **中華帝國主義**, **bính âm: Zhōnghuá dìguó
nhỏ|phải|Lãnh thổ thời tự chủ Việt Nam. **Tự chủ** là thời kỳ đầu khôi phục lại nền độc lập của Việt Nam đầu thế kỷ 10 sau hơn 1000 năm Bắc thuộc. Thời kỳ này,
**Tây Chu** (西周) là tên một nước chư hầu nhỏ vào thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Năm 440 TCN, Chu Khảo Vương Cơ Nguy sau khi lên ngôi đã phân phong cho
**Hậu Chu Thế Tông** (chữ Hán: 後周世宗, 921 – 959), tên thật là **Sài Vinh** (柴榮) và sau đó đổi thành **Quách Vinh** (郭榮). Ông là Hoàng đế thứ hai của nhà Hậu Chu, trị
**Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam** là chính phủ thứ hai của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1946 trên cơ sở cải tổ
**Chủ nghĩa Đại Hán** (chữ Hán: **大漢族主義** _Đại Hán tộc chủ nghĩa /_ **漢沙文主義** _Hán sô vanh chủ nghĩa_ tại Trung Quốc đại lục và Đài Loan được gọi là **漢本位** _Hán bản vị_) là