✨Chaldea

Chaldea

nhỏ|300x300px| Các nước xung quanh Chaldea nhỏ|393x393px| Chaldea và các nước láng giềng Chaldea (, hay Chaldaea) là một quốc gia tồn tại từ khoảng cuối thế kỷ 10 hoặc đầu thế kỷ 9 cho đến giữa thế kỷ 6 TCN ở Lưỡng Hà, sau đó lãnh thổ và dân cư của nó dần sáp nhập và đồng hóa vào Babylonia. Chaldea là đất nước nói tiếng Semit, nằm ở vùng đầm lầy cực đông nam Lưỡng Hà và có một thời gian ngắn cai trị Babylon. Kinh thánh tiếng Do Thái sử dụng thuật ngữ (Kaśdim), được dịch là Chaldaea, trong Cựu Ước Hy Lạp để chỉ dân tộc này, mặc dù có một số tranh cãi rằng Kasdim thực tế chỉ vùng Kaldu ở miền nam Lưỡng Hà.

Khi vương quốc Babylon nói tiếng Đông Semit suy tàn, các bộ tộc Tây Semit từ Levant di cư đến khu vực này khoảng giữa thế kỷ 11 và thế kỷ 9 TCN. Những làn sóng đầu tiên bao gồm người Sutu và Aram, sau đó khoảng 1 thế kỷ là người Kaldu, sau này được biết đến là người Chaldea hoặc Chaldee. Từ thế kỷ 9 tới thế kỷ 6 TCN, Babylon nằm dưới ách đô hộ của đế quốc Tân Assyria.

Năm 620 TCN, nhân cơ hội Assyria suy yếu, người Chaldea nổi dậy giành quyền kiểm soát Babylon, thành lập đế quốc Tân Babylon, hay còn được biết đến là triều đại Chaldea.

Người Chaldea cổ dường như đã di cư đến Lưỡng Hà vào khoảng giữa k. 940-860 TCN, khoảng một thế kỷ sau khi những người Semit Aram và Sutu xuất hiện ở Babylonia, k. 1100 TCN. Họ lần đầu tiên được nhắc đến trong biên niên sử của vua Assyria Shalmaneser III trong k. 850 TCN. Đây là thời kỳ Babylonia suy yếu, các vị vua bản địa bất lực trước các dân tộc bán du mục từ bên ngoài ồ ạt đến xâm chiếm và định cư.

Người Chaldea ban đầu nói một ngôn ngữ Tây Semit tương tự nhưng phân biệt với tiếng Aram. Trong thời kỳ Đế quốc Assyria, vua Assyria Tiglath-Pileser III đã đặt phương ngữ Đông Aram làm ngôn ngữ chung của đế chế vào giữa thế kỷ thứ 8 TCN. Do vậy, đến cuối thời kỳ, cả hai phương ngữ Akkad của người Babylon và người Assyria đều bị mai một dần, còn tiếng Aram Lưỡng Hà thống trị trong khu vực, bao gồm cả vùng đất của người Chaldea. Một dạng phương ngữ của ngôn ngữ này vẫn là tiếng mẹ đẻ của người Assyria Kitô giáo hiện nay ở miền bắc Iraq, đông bắc Syria, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ và tây bắc Iran cho đến ngày nay.

Lịch sử

Thời kỳ đầu

Người Chaldea đến định cư ở vùng đông nam Lưỡng Hà, một vùng đất tương đối nghèo nàn ở đầu phía Vịnh Ba Tư. Họ có thể di cư đến miền nam Babylonia từ Levant vào khoảng từ năm 940 TCN đến 855 TCN, mặc dù không có bằng chứng lịch sử nào về sự tồn tại của họ trước cuối những năm 850 TCN.

Có lẽ trong một thế kỷ sau đó hoặc lâu hơn, những bộ lạc Chaldea bán du mục này không có tác động gì lịch sử khu vực và khuất phục trước các vị vua Babylon hoặc các bộ tộc Aram hùng mạnh hơn.

Bằng chứng sử liệu đầu tiên là từ biên niên sử của vua Assyria Shalmaneser III k. 850 TCN nhắc đến việc ông xâm lược vùng cực đông nam Babylonia và thuần phục Mushallim-Marduk, thủ lĩnh tộc Amukani và toàn bộ các tộc người Kaldu, chiếm trấn Baqani và thu cống nạp từ Adini, thủ lĩnh tộc Bet-Dakkuri, của Chaldea. Shalmaneser III xâm lược Babylonia theo thỉnh cầu giúp đỡ từ vua Babylon Marduk-zakir-shumi I, người đang bị các cuộc nổi loạn và các tộc người ngoại bang đe dọa.

Người Chaldea bị người Babylon bản địa (đã lần lượt thần phục Assyria) cai trị trong bảy mươi hai năm tiếp theo, cho đến năm 780 TCN, nhân lúc Tân Assyria suy yếu, Marduk -apla-usur của Chaldea chiếm được ngại vàng Babylon.

Shalmaneser IV của Assyria tấn công và chiếm lại miền bắc Babylon, bắt ông ta phải kí hòa ước có lợi cho Assyria. Tuy nhiên, Marduk-apla-usur và người Chaldea vẫn giữ được ngai vàng. Suốt thời kì này, Babylon ở trong tình trạng hỗn loạn, với phía bắc bị Assyria chiếm đóng, bị người Chaldea cai trị và tình hình dân cư bất ổn nổi lên khắp vùng đất.

Vua Nabonassar của Babylon đã lật đổ những kẻ tiếm ngôi Chaldea vào năm 748 TCN. Tuy nhiên, Tiglath-Pileser III của Assyria (745-727 TCN) sau khi lên ngôi lại tấn công Babylon và bắt Nabonassar thần phụk. Babylon trở thành chư hầu của Assyria trong hai trăm năm cho đến năm 729 TCN, vua Assyria đã quyết định đặt Babylon dưới sự cai trị trực tiếp thay vì là vùng đất chư hầu.

Một thủ lĩnh Chaldea là Marduk-apla-iddina II (721-710 BC), được người Elam hậu thuẫn, nổi dậy chống lại ách thống trị của Assyria, cuối cùng bị đánh bại bởi Sargon II của Assyria và phải lưu vong ở Elam.

Sennacherib (705-681 TCN) kế vị Sargon II, và sau khi cai trị trực tiếp một thời gian, ông đưa con trai Ashur-nadin-shumi lên ngai vàng. Nergal-ushezib của Elam giết chết hoàng tử Assyria và soán ngôi. Sennacherib nổi giận, đánh bại Elam và cướp phá Babylon, phá hủy phần lớn thành phố. Sennacherib sau đó bị sát hại bởi chính con trai mình khi cầu nguyện với thần Nisroch ở Nineveh năm 681 TCN. Một vị vua bù nhìn, Marduk-zakir-shumi II, được vua Assyria mới Esarhaddon đặt lên ngai vàng. Marduk-apla-iddina của Chaldea trở về từ Elam, soán ngôi trong một thời gian ngắn trước khi bị Esarhaddon đánh bại và lần nữa lại phải lưu vong ở Elam cho đến khi qua đời.

Esarhaddon (681-669 TCN) xây dựng lại hoàn toàn thành phố, mang lại sự tươi trẻ và hòa bình cho khu vực. Ông chinh phạt Ai Cập, Nubia và Libya và thuần phục các dân tộc Ba Tư, Media, Parthia, Scythia, Cimmeria, Aram, Israel, Phoenicia, Canaan, Urartia, Hy Lạp Pontus, Cilicia, Phrygia, Lydia, Mannea và Ả Rập. Trong 60 năm tiếp theo, Babylon và Chaldea sống hòa bình dưới sự kiểm soát của Assyria. Sau khi chết, nhằm duy trì cân bằng trong đế chế rộng lớn của mình (trải dài từ vùng Kavkaz đến Ai Cập và Nubia và từ đảo Síp đến Iran), ông đưa con trai cả Shamash-shum-ukin làm vua chư hầu ở Babylon và người con út, Ashurbanipal thông thái (669-627 TCN), ở ngôi vị cao hơn là vua của Assyria.

Mặc dù là một người Assyria, Shamash-shum-ukin (668–648 TCN), sau nhiều thập kỷ khuất phục, đã tuyên bố thành Babylon (chứ không phải thành phố Nineveh của Assyria) là kinh đô của đế quốc và nổi dậy chống lại em trai mình. Ông lãnh đạo liên minh các dân tộc bị Assyria áp bức, bao gồm Elam, Ba Tư, Media, Babylon, Chaldea và Sutu ở miền nam Lưỡng Hà, Aram ở Levant và Tây Nam Lưỡng Hà, Ả Rập và Dilmun ở bán đảo Ả Rập và Canaan-Phoenicia. Sau một cuộc chiến khốc liệt, Babylon bị phá hủy và liên minh bị nghiền nát. Shamash-shum-ukim bị giết, Elam bị hủy diệt hoàn toàn, và các tộc người tham gia nổi loạn bị đàn áp dã man. Một tổng trấn Assyria là Kandalanu được đặt lên ngai vàng cai trị thay mặt cho vua Assyria. Sau khi Ashurbanipal qua đời vào năm 627 TCN, con trai của ông là Ashur-etil-ilani (627-623 TCN) đã trở thành vua của Babylon và Assyria.

Tuy nhiên, Assyria sớm rơi vào một loạt các cuộc nội chiến tàn khốc dẫn đến sự sụp đổ của đế quốk. Ashur-etil-ilani đã bị một trong những tướng lĩnh của mình là Sin-shumu-lishir soán ngôi vào năm 623 TCN. Chỉ một năm sau, Sin-shar-ishkun (622-612 TCN) lật đổ ông ta, trở thành vua của Assyria và Babylonia vào năm 62 TCN. Tuy nhiên, nội chiến nổi lên không ngớt ở vùng trung tâm Assyria. Đế chế rộng lớn của Assyria bắt đầu tan rã, nhiều nước chư hầu đã ngừng thần phục, đáng kể nhất là người Babylon, Chaldea, Media, Ba Tư, Scythia, Aram và Cimmeria. Lợi dụng điều này, Nabopolassar của Chaldea nổi dậy và giành độc lập cho Babylon.

Triều đại Chaldea của Babylon

Vào năm 620 TCN, Nabopolassar đã giành quyền kiểm soát phần lớn Babylon và được dân chúng ủng hộ, ngoại trừ thành Nippur và một số khu vực phía bắc vẫn trung thành với vua Assyria.

Amel-Marduk kế vị và chỉ ở ngôi hai năm. Có ít ghi chép đương thời về triều đại của ông, mặc dù Berosus sau này cho rằng ông bị người kế nhiệm Neriglissar phế truất và sát hại vào năm 560 TCN vì "những hành vi sai trái".

Neriglissar (560-556 TCN) cũng có một triều đại ngắn ngủi. Ông là con rể của Nebuchadnezzar II, không rõ là người Chaldea hay người Babylon bản địa. Ông tấn công Aram và Phoenicia, thành công duy trì sự thống trị của Babylon ở những vùng này. Tuy nhiên, Neriglissar chết sớm. Con trai là Labashi-Marduk (556 TCN), vẫn còn là một cậu bé, kế vị và bị giết trong cùng năm bởi Nabodius.

Kết thúc triều đại Chaldea

Vị vua Babylon cuối cùng, Nabonidus (Nabu-na'id, 556-539 TCN), là con trai của nữ tư tế người Assyria Adda-Guppi, xuất thân từ Harran (Kharranu), kinh đô cuối cùng của Assyria. Thông tin liên quan đến Nabonidus có nguồn gốc chủ yếu từ một phiến đất sét có ghi niên hiệu của Nabonidus, và dòng chữ khắc ghi công ông xây dựng lại ngôi đền của Thần mặt trăng Sin tại Harran; cũng như trong tuyên cáo của Cyrus được ban hành ngay sau khi ông chiếm được Babylonia.

Nhiều yếu tố phát sinh dẫn đến sự sụp đổ của Babylon. Dân chúng Babylonia trở nên bất mãn với Nabonidus do ông quy tập toàn bộ hoạt động thờ phụng đa thần về đền thờ chính Marduk ở Babylon, dẫn đến bỏ bê giới tăng lữ địa phương. Ông cũng không được lòng quân đội do sở thích nghiên cứu khảo cổ của mình. Nabonidus có vẻ đã để cho con trai Belshazzar (một vị tướng có khả năng nhưng kém về ngoại giao, không được lòng giới tinh hoa chính trị) nhiếp chính, còn mình thì mải khai quật ghi chép lưu trữ của các đền thờ và xác định ngày tháng xây dựng. Ông cũng dành nhiều thời gian bên ngoài Babylon, xây dựng lại các ngôi đền ở thành phố Harran của Assyria, hoặc ở tại các vùng chư hầu Ả Rập trong các sa mạc ở phía nam Lưỡng Hà. Nguồn gốc Assyria của Nabonidus và Belshazzar cũng có thể khiến cho sự phẫn nộ gia tăng. Ngoài ra, các thế lực quân đội tại Lưỡng Hà thường tập trung ở các vùng Assyria cũ, nhưng không còn Assyria kiềm chế, khiến cho Babylonia ở vào thế không được phòng thủ và dễ bị xâm chiếm hơn so với phía bắk.  

Năm 539 TCN, Cyrus xâm chiếm Babylonia. Vào tháng 6, Opis bị chiếm; ngay sau đó Sippar đầu hàng. Nabonidus chạy về Babylon, và bị Gobryas bắt giữ. Vào ngày 16 lịch Tammuz, hai ngày sau khi Sippar đầu hàng, "binh sĩ của Cyrus vào Babylon mà không gặp phải sự kháng cự nào." Cho đến tận ngày 3 của Marchesvan (tháng Mười) Cyrus mới đến, trong thời gian đó Gobryas thay mặt cho ông và được phong làm tổng trấn của tỉnh Babylon. Vài ngày sau đó Belshazzar tử trận. Tang lễ được tổ chức kéo dài 6 ngày, con trai của Cyrus là Cambyses đi cùng lễ rước thi hài nhập táng.

Một trong những đạo luật đầu tiên của Cyrus là cho phép những người lưu vong Do Thái trở về nhà. Qua đó Cyrus thể hiện mình chính thức sở hữu ngai vàng Babylon.

Cyrus tuyên bố là người thừa kế hợp pháp của các vị vua Babylon cổ đại và là kẻ báo thù cho thần Marduk, người đã rất phẫn nộ trước sự bất kính của Nabonidus khi đem các tượng thần địa phương khỏi đền thờ gốc của họ tới thủ đô Babylon.

Tộc Chaldea đã mất quyền kiểm soát Babylonia trong nhiều thập kỷ trước khi kết thúc thời đại mang tên họ, và họ dường như đã hòa nhập với thường dân Babylonia từ trước đó (ví dụ, Nabopolassar, Nebuchadnezzar II và những người kế vị đều tự xưng là Shar Akkad chứ không phải là Shar Kaldu trên các dòng chữ khắc). Trong Đế chế Achaemenid của Ba Tư, thuật ngữ Chaldea đã không còn dùng để chỉ một chủng tộc người, mà thay vào đó là đẳng cấp tu sĩ có học vấn về Babylon cổ điển, cụ thể là Thiên văn học và Chiêm tinh. Vào giữa thời Đế chế Seleucid (312-150 TCN), thuật ngữ này cũng đã không còn được sử dụng. Các thuật ngữ Chaldee và Chaldea từ đó chỉ được tìm thấy trong các nguồn tiếng Hebrew và Kinh Thánh có niên đại từ thế kỷ thứ 6 và thứ 5 TCN, và đề cập cụ thể đến thời kỳ của triều đại Chaldea của Babylon.

Dẫn nguồn

Sách tham khảo

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|300x300px| Các nước xung quanh Chaldea nhỏ|393x393px| Chaldea và các nước láng giềng **Chaldea** (, hay **Chaldaea**) là một quốc gia tồn tại từ khoảng cuối thế kỷ 10 hoặc đầu thế kỷ 9 cho
**Nebuchadnezzar II** (Tiếng Aram: , phiên âm **Ne-bu-ka-nét-za**, Chữ hình nêm: 𒀭𒀝𒆪𒁺𒌨𒊑𒋀 _Nabû-kudurri-uṣur_) hay **Nabuchodonosor II**, đọc như **Na-bu-cô-đô-nô-do II** (khoảng 642 – 562 TCN) là vua của Vương triều Chaldea xứ Babylon, trị vì
**Văn minh cổ Babylon** hay **Babylonia** () là một quốc gia cổ đại nói tiếng Akkad và là một vùng văn hóa có trung tâm tại trung-nam Lưỡng Hà (nay là Iraq và Syria). Ban
**Đế quốc Tân Babylon**, còn được gọi là **Đế chế Babylon thứ hai** và thường được các nhà sử học nhắc đến là **Đế chế Chaldea**, là đế quốc Lưỡng Hà lớn cuối cùng được
thumb|Tấm tượng quái vật bảo vệ mình bò có cánh, đầu người tại cung điện của [[Sargon II.]] **Assyria** là một vương quốc của người Akkad, ban đầu tồn tại với tư cách nhà nước
**Babylon** (tiếng Hy Lạp: Βαβυλών, tiếng Akkad: _Babili_, _Babilla_) là một thành quốc của Lưỡng Hà cổ đại. Các di tích của thành quốc này được phát hiện ngày nay nằm ở Hillah, Babil, Iraq,
**Sennacherib** (chữ hình nêm Tân Assyria: hay , có nghĩa "Sîn thế chỗ các anh") là vua của Đế quốc Tân Assyria từ khi kế vị Sargon II năm 705TCN đến khi bị giết năm
Bài **lịch sử Iraq** gồm một khái quát chung từ thời tiền sử cho tới hiện tại ở vùng hiện nay là đất nước Iraq tại vùng đất Lưỡng Hà. Xem thêm Biên niên sử
**Chiêm tinh học** là một hệ thống huyền học, hay ngụy khoa học dự đoán về vấn đề nhân loại và sự kiện trần thế bằng cách nghiên cứu chuyển động và vị trí tương
phải|nhỏ| Bản đồ cho thấy phạm vi của Lưỡng Hà Lịch sử của **Lưỡng Hà** (**Mesopotamia**) trải dài từ khi bắt đầu có người định cư trong thời kỳ Hạ Sumaya cho đến thời cổ
Dưới đây là danh sách các giáo phái của Kitô giáo xếp theo số lượng tín hữu. Theo sách "Status of Global Mission, 2008" của Trường thần học Gordon-Conwell (có trụ sở tại South Hamilton,
**Thượng phụ**, còn được gọi là **Trưởng phụ** hay **Mục thủ**, là các giám mục bậc cao nhất trong Công giáo Rôma, Chính Thống giáo Đông phương, Chính Thống giáo Cổ Đông phương, và Cảnh
Một cuộc rước ngày [[Chúa nhật Lễ Lá, bích họa ở Cao Xương thời Nhà Đường]] **Cảnh giáo** hay **Giáo hội Phương Đông**, còn gọi là **Giáo hội Ba Tư**, là một tông phái Kitô
**Người Assyria** (), hay **người Syriac** (xem thuật ngữ cho Kitô hữu Syriac), tùy vào tự nhận hoặc phân nhóm còn gọi là **người Chaldea** hoặc **người Aramea**, là một sắc tộc tôn giáo theo
nhỏ|200x200px|Cây sự sống trên thiên đường - Hình minh họa thế kỷ 15 **Cây sự sống** (tiếng Hebrew: עֵץ הַחַיִּים - _Ec ha-Chajim_) là cây trong vườn địa đàng theo Kinh Thánh, sinh trái ăn
Chuyển động tiến động của vật thể quay **Tiến động** hay **tuế sai**, là hiện tượng trong đó trục của vật thể quay (ví dụ một phần của con quay hồi chuyển) "lắc lư" khi
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
phải|Hệ Mặt trời theo [[Thuyết nhật tâm]] **Chu kỳ Meton** (_Enneadecaeteris_) trong thiên văn và lập lịch là sự xấp xỉ cụ thể của bội số chung của năm chí tuyến và chu kỳ quay
**Liban** (Phiên âm tiếng Việt: **Li-băng**; ; phiên âm tiếng Ả Rập Liban: ; ; ), tên chính thức là **Cộng hòa Liban** ( ; phiên âm tiếng Ả Rập Liban: ; ; tiếng Anh:
**Sân bay quốc tế Rafic Hariri** (cũng gọi **Sân bay quốc tế Beirut**, tên trước đây **Chaldea Airport**) (tiếng Ả Rập: مطار رفيق الحريري الدولي) là một sân bay tọa lạc các trung tâm thành
**Antimon**, còn gọi là **ăng-ti-mon**, **ăng-ti-moan, ăng-ti-moong** (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp _antimoine_ /ɑ̃timwan/),stibi Là một á kim, antimon có 4 dạng thù hình. Dạng ổn định nhất của antimon là dạng á kim
**Cyrus Đại đế**, cũng viết là **Kourosh Đại đế**, **Kyros Đại đế** hay **Cyros Đại đế** (Tiếng Ba Tư cổ đại: 𐎤𐎢𐎽𐎢𐏁, , , Ba Tư: کوروش بزرگ, ) (Khoảng 600 TCN hoặc là 576
‎ **Democritos** (tiếng Hy Lạp: ) là một triết gia người Hy Lạp sống trước thời kỳ Socrates. Ông sinh ra vào khoảng 460 TCN ở thành phố Abdera, một địa điểm trên bờ biển
**Euphrates** (tiếng Ả Rập: , **'; Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: ; tiếng Syria: , **'; tiếng Việt: **Ơ-phơ-rát** được phiên âm từ tiếng Pháp: _Euphrate_) là con sông phía tây trong hai con sông làm
**313 Chaldaea** là một tiểu hành tinh kiểu C, ở vành đai chính. Nó có bề mặt tối và có thành phần cấu tạo có lẽ bằng chondrite cacbonat. Tiểu hành tinh này do Johann
**Êugêniô IV** (Latinh: **Eugenius IV**) là vị giáo hoàng thứ 207 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1431 và ở ngôi Giáo
**Đế quốc Tân-Assyria** là một đế quốc của người Lưỡng Hà, phát triển trong giai đoạn lịch sử bắt đầu từ 934 TCN và kết thúc năm 609 TCN. Trong suốt thời kỳ này, Assyria
nhỏ|_Phiến đất sét Đại hồng thủy_ từ Sử thi Gilgamesh, lấy từ tàn tích thư viện Ashurbanipal, thế kỉ thứ 7 TCN, hiện đang trưng bày ở [[Bảo tàng Anh]] **_Sử thi Gilgamesh_** là một
**Giáo hội Phương Đông Assyria** tên chính thức là **Giáo hội Phương Đông Thánh thiện Tông truyền Công giáo Assyria** (tiếng Syriac: ܥܕܬܐ ܩܕܝܫܬܐ ܘܫܠܝܚܝܬܐ ܩܬܘܠܝܩܝ ܕܡܕܢܚܐ ܕܐܬܘܪܝܐ ʻIttā Qaddishtā w-Shlikhāitā Qattoliqi d-Madnĕkhā d-Āturāyē) là
**Các Giáo hội Công giáo Đông phương** là các giáo hội riêng biệt tự trị, hiệp thông hoàn toàn với Giáo hoàng, hợp cùng Giáo hội Latinh tạo thành toàn bộ Giáo hội Công giáo.
**Batman** () là một đơn vị đo khối lượng được sử dụng trong Đế chế Ottoman và trong số các dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ của Đế quốc Nga. Nó cũng đã được ghi nhận
nhỏ|300x300px| Bức tranh _Phu tù tại Babylon_ - [[người Do Thái bị bắt làm phu tù từ Canaan đến Babylon, do hoạ sĩ Pháp James Tissot vẽ vào năm 1896.]] nhỏ|Trục xuất người Do Thái
nhỏ|[[Nhà thờ chính tòa thánh George (Maronite)|Nhà thờ chính tòa thánh George và thánh đường Mohammad Al-AminBeirut.]] nhỏ|Nhà thờ Kitô giáo đứng bên một khalwa (nhà cầu nguyện) của người Druze trên [[dãy núi Shuf.
nhỏ|phải|Ông Shem **Shem** (tiếng Do Thái: שֵׁם /_Šēm_; tiếng Ả rập: سَام/_Sām_) là một trong những ngươi con trai của Nô-ê trong Kinh thánh (được kể đến trong Sáng thế ký 5–11) và 1 Sử
thumb|Bán cầu Đông năm 1300 TCN thumb|Cốc uống rượu, [[Nhà Thương, thế kỷ 13 TCN, Phòng tranh Arthur M. Sackler.]] Thế kỉ 13 TCN bắt đầu từ ngày đầu tiên của năm 1300 TCN và
nhỏ|Hình minh họa mô tả một cảnh trong Kinh thánh. Cảnh này thể hiện [[Phù thủy xứ Endor (bên phải) thực hiện nghi lễ chiêu hồn để gọi vong nhà tiên tri Samuel (ở giữa)
Niềm tin về tương ứng giữa quan sát thiên văn và các sự kiện trên Trái đất trong học Tử vi đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong lịch sử nhân loại, bao gồm
**_Atra-Hasis_** là thiên sử thi Akkad vào thế kỉ 18 TCN, được ghi lại trên phiến đất sét với nhiều phiên bản khác nhau. Nó được đặt tên theo nhân vật chính Atrahasis, có nghĩa