✨Cats (nhạc kịch)

Cats (nhạc kịch)

Cats (tạm dịch: "Tộc mèo") là một vở nhạc kịch thuần hát xuất xứ từ Anh do Andrew Lloyd Webber sáng tác dựa trên tuyển tập thơ Old Possum's Book of Practical Cats của T. S. Eliot. Nội dung của vở nhạc kịch xoay quanh bộ tộc mèo Jellicle trong một đêm quan trọng phải chọn ra một thành viên sẽ được đầu thai chuyển kiếp.

Từ năm 1981, Cats được công diễn ở Luân Đôn suốt 21 năm liền với 8.949 buổi diễn rồi tiếp tục tại Broadway suốt 18 năm với 7.485 buổi diễn. Tháng 5 năm 1989, sau buổi diễn thứ 3.358, Cats vượt qua Jesus Christ Superstar để nắm kỉ lục là vở nhạc kịch được công diễn liên tục lâu đời nhất Luân Đôn. và đã có 50 triệu người ở hơn 27 quốc gia khác nhau xem vở nhạc kịch này. Bài hát "Memory" được viết cho nhân vật Grizabella đã được hơn 150 nghệ sĩ trên thế giới cover lại. Ngoài ra cũng đã được phát sóng 53.000 lần trên radio và truyền hình ở Liên hiệp Anh và hơn 2 triệu lần ở Hoa Kỳ.

Sản xuất

nhỏ|phải|khung|Công diễn ở nhà hát New London Theatre năm 1999.

West End, Luân Đôn

Bản gốc của Cats được công diễn ở nhà hát New London thuộc hệ thống West End ngày 11 tháng 5 năm 1981, do công ty Really Useful Group của Cameron Mackintosh và Andrew Lloyd Webber sản xuất. Đội ngũ sáng tạo gồm có Trevor Nunn trong vai trò đạo diễn, Gillian Lynne là biên đạo múa, John Napier thiết kế sân khấu và phục trang, David Hersey thiết kế ánh sáng, Abe Jacob thiết kế âm thanh, còn Harry Rabinowitz chỉ đạo âm nhạc. Vở kịch kết thúc ngày 11 tháng 5 năm 2002 (cũng là ngày kỷ niệm 21 năm) với tổng số 8.949 buổi diễn. Buổi diễn cuối cùng được phát sóng trực tiếp thông qua vệ tinh lên một màn hình khổng lồ ở quảng trường Covent Garden dành cho những khán giả muốn coi mà không mua được vé. Tháng 5 năm 1989, sau buổi diễn thứ 3.358, Cats vượt qua Jesus Christ Superstar để nắm kỉ lục là vở nhạc kịch được công diễn liên tục lâu đời nhất Luân Đôn.

Năm 2014, West End cho sản xuất lại Cats ở nhà hát London Palladium do đội ngũ sản xuất gốc đảm nhiệm, ra mắt từ ngày 6 tháng 12 và chính thức công diễn từ ngày 11 tháng 12, với sự góp mặt của Nicole Scherzinger vai Grizabella. Andrew Lloyd Webber đã cải biên lại bài hát "The Rum Tum Tugger" cho đợt sản xuất này. Ban đầu ê kíp định chỉ công diễn 12 tuần nhưng sau đó đã kéo dài thêm đến hết tháng 4 năm 2015 và bán thêm 100.000 vé, Kerry Ellis thế chỗ Scherzinger để diễn vai Grizabella. Tháng 10 năm 2015, Cats quay lại nhà hát London Palladium cho một đợt diễn ngắn hạn cho mùa Giáng sinh từ ngày 23 tháng 10 đến ngày 2 tháng 1 năm 2016, với Beverly Knight thủ diễn vai Grizabella.

Broadway, New York

Cats ra mắt khán giả Broadway ngày 7 tháng 10 năm 1982 ở nhà hát Winter Garden với doanh thu kỉ lục 6,2 triệu đô la Mỹ từ vé đặt trước. Đa số nhân lực trong đội ngũ sáng tạo vẫn giống như bên West End, trừ Martin Levan trở thành nhà thiết kế âm thanh còn Stanley Lebowsky làm đạo diễn âm nhạc. Phiên bản này được đồng sản xuất với đội ngũ gốc từ West End, phối hợp cùng David Geffen và tổ chức The Shubert Organization. Tại thời điểm đó, Cats là vở nhạc kịch Broadway có chi phí sản xuất cao nhất từ trước đến giờ – lên đến 5,5 triệu đô la Mỹ, và sau đó đã hoàn vốn trong vòng chưa đến 10 tháng. Vở nhạc kịch còn được cho là đã ảnh hưởng về mặt kinh tế của thành phố New York với khoảng 3,12 tỉ đô la Mỹ, đồng thời tạo ra nhiều việc làm hơn bất kì tổ chức nào trong lịch sử Broadway. Vào đầu năm 2000 đã có thông báo rằng vở kịch sẽ đóng màn vào tháng 6 nhưng sau đã phải lùi lại do số lượng vé bán ra tăng đột biến. Đợt sản xuất này kết thúc vào ngày 10 tháng 9 năm 2000 với tổng cộng 15 buổi ra mắt và 7.485 buổi diễn chính thức. Cats bị Bóng ma trong nhà hát soán ngôi vở nhạc kịch trình diễn lâu đời nhất Broadway vào ngày 9 tháng 1 năm 2006, và hiện nay đang giữ vị trí thứ tư. Ước tính vở nhạc kịch đã thu về 338 triệu đô la Mỹ doanh thu phòng vé.

Nhìn thấy sự thành công của đợt diễn lại ở West End năm 2014, các nhà sản xuất tìm cách mang Cats trở lại sân khấu Broadway vào đầu năm 2015. Kết quả là một đợt công diễn mới bắt đầu từ ngày 31 tháng 7 năm 2016 tại nhà hát Neil Simon, với sự tham gia của Nunn và Napier từ ê kíp sản xuất gốc, Andy Blankenbuehler là biên đạo múa mới. Ban đầu Nicole Scherzinger đã đồng ý sẽ thủ diễn lại vai Grizabella nhưng sau đó đã rút lui. Leona Lewis nhận vai này rồi truyền lại cho Mamie Parris vào tháng 10 năm 2016. Đợt sản xuất này kết thúc vào ngày 30 tháng 12 năm 2017 sau 16 buổi ra mắt và 593 buổi diễn. Đợt sản xuất thứ hai (Cats National II) không đi lưu diễn mà chỉ tổ chức ở nhà hát Shubert ở thành phố Los Angeles từ tháng 1 năm 1985 đến tháng 11 năm 1986, với sự góp mặt của Kim Criswell vai Grizabella và George de la Peña vai Mistoffelees. Tour lưu diễn nội địa Hoa Kỳ thứ ba (Cats National III) trải dài hai năm từ tháng 9 năm 1986 đến tháng 9 năm 1988. Diễn viên nổi bật của tour lưu diễn này gồm có Jonathan Cerullo trong vai Skimbleshanks (năm 1986) và Bill Nolte trong vai Old Deuteronomy (năm 1987).

Đợt lưu diễn thứ tư (Cats National IV) kéo dài 13 năm – bắt đầu từ tháng 3 năm 1987 đến tháng 12 năm 1999, và đã vượt qua tour lưu diễn đợt tháng 11 năm 1997 của Oklahoma! để trở thành tour lưu diễn dài nhất lịch sử sân khấu, chạm mốc buổi biểu diễn thứ 5.000 vào tháng 7 năm 1999.

Sau khi đợt diễn Broadway kết thúc vào năm 2000, công ty Troika Entertainment mua được quyền lưu diễn vở nhạc kịch Cats và tổ chức một buổi diễn thí điểm tại khu phức hợp giải trí Harrah's Atlantic City vào tháng 7 năm 2001. Sau đó đoàn diễn đi tour khắp Bắc Mỹ trong 11 năm, từ tháng 8 năm 2001 đến tháng 6 năm 2012. Dàn diễn viên có Julie Garnyé vai Jennyanydots (2001) và Dee Roscioli vai Grizabella (2002).

Tháng 1 năm 2019, trung tâm trình diễn nghệ thuật Providence ở bang Rhode Island cho sản xuất một tour lưu diễn Bắc Mỹ dựa trên đợt diễn Broadway năm 2016, ban đầu dự định đi lưu diễn đến tháng 6 năm 2020 nhưng đã phải kết thúc sớm vào cuối tháng 4 năm 2020 do dịch COVID-19.

Tour lưu diễn toàn quốc Canada bắt đầu ra mắt ở nhà hát Elgin và Winter Garden ở Toronto vào tháng 3 năm 1985, hai năm sau chuyển đến Montreal rồi đi lưu diễn đến các địa phương khác. Tại thời điểm kết thúc vào tháng 8 năm 1989, đây là sản phẩm sân khấu thành công nhất mọi thời đại của Canada với $78 triệu doanh thu từ gần 2 triệu vé bán ra. Tháng 5 năm 2013, tức 28 năm sau đợt diễn đầu tiên, bắt đầu đợt sản xuất thứ hai quy tụ dàn diễn viên đều là người Canada tại nhà hát Panasonic cũ ở Toronto, kéo dài trong 4 tháng với 128 buổi diễn.

Vở nhạc kịch Cats đến với Mexico lần đầu tiên vào tháng 4 năm 1991, diễn bằng tiếng Tây Ban Nha với hơn 400 buổi và kết thúc vào tháng 11 năm 1992. Manuel Landeta vai Munkustrap, Susana Zabaleta vai Jellylorum, Maru Dueñas vai Sillabub cũng như Ariel López Padilla vai Macavity. Tháng 5 năm 2013 đánh dấu đợt sản xuất lại tại nhà hát Teatro San Rafael, đêm mở đầu có sự góp mặt của Filippa Giordano vai Grizabella, Landeta, và Maru Dueñas. Đợt sản xuất này đóng vào tháng 6 năm 2014 sau 350 buổi diễn, rồi đi lưu diễn đến hơn 36 thành phố đến tháng 12 năm 2014. Ngoài Giordano, vai diễn Grizabella còn do những người sau đảm nhiệm: Lisset, Rocío Banquells, Lila Deneken và Myriam Montemayor Cruz. Tháng 10 năm 2018 bắt đầu một đợt sản xuất mới tại nhà hát Coyoacán Centennial, Yuri đóng vai Grizabella còn Landeta vai Old Deuteronomy. Đợt diễn này đã chạm mốc buổi diễn thứ 200 vào tháng 5 năm 2019.

Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland

Tháng 5 năm 1989 đánh dấu tour lưu diễn đầu tiên ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland cùng Ireland, khởi hành tại nhà hát Opera House ở huyện Blackpool với sự góp mặt của Marti Webb vai Grizabella, Rosemarie Ford vai Bombalurina cũng như John Partridge vai Alonzo. Sau 6 tháng lưu diễn đã có 450.000 khán giả đến xem, đồng thời trở thành một kỉ lục phòng vé. Vở nhạc kịch được thuyên chuyển sang nhà hát Edinburgh Playhouse trong ba tháng, sau đó đến nhà hát Point ở Dublin rồi đóng cửa vào tháng 5 năm 1990. Lần này, Rosemarie Ford thủ vai Grizabella, Robin Cousins là Munkustrap, Simon Rice đóng Mistoffelees còn Tony Monopoly đảm nhiệm vai Old Deuteronomy. Tour diễn kết thúc tại nhà hát Opera Manchester vào tháng 12 năm 1995.

Sau khi đợt công diễn gốc ở West End kết thúc, một tour lưu diễn toàn quốc đã diễn ra từ năm 2003 đến năm 2008, trong đó nhân vật Grizabella là do Chrissie Hammond thủ vai rồi chuyển giao lại cho Dianne Pilkington vào năm 2006. Sau này, Hammond vào lại vai diễn này từ 2007 đến 2008.

Năm 2013 chứng kiến một đợt lưu diễn khác xuất phát từ nhà hát Edinburgh Playhouse, vai Grizabella do Joanna Ampil thủ diễn, rồi Susan McFadden đảm nhiệm vai diễn này trong đợt diễn ba tuần tại Dublin. Đợt diễn này kéo dài suốt năm 2014 trước khi dừng chân tại West End để công diễn một số lượng buổi nhất định. Trong khoảng thời gian này, Cats có trở lại nhà hát Opera House ở Blackpool vào năm 2015, lần này vai Grizabella do Jane McDonald thủ diễn.

Sau khi đợt diễn lại năm 2014 của West End thành công, một tour lưu diễn với sự tham gia của Anita Louise Combe (vai Grizabella) và Marquelle Ward (vai Rum Tum Tugger) được tổ chức và đã kết thúc trong cùng một năm 2016.

Nhật Bản

thumb|left|Nhà hát CATS ở quận [[Shinagawa, Tokyo|Shinagawa, thành phố Tokyo.]]

Bản chuyển thể tiếng Nhật của Cats được sản xuất bởi công ty kịch nghệ Shiki, ra mắt ở quận Shinjuku ở Tokyo năm 1983. Công ty này đã bỏ ra một vốn đầu tư khoảng 800 triệu yên để mang vở nhạc kịch về Nhật Bản, trong đó có 300 triệu yên là để xây dựng một nhà hát thiết kế riêng. Đây là một rủi ro tài chính lớn cho công ty Shiki vì thời bấy giờ ở Nhật, một vở nhạc kịch thường chỉ công diễn 3 tháng, ít khi nào diễn từ năm này qua năm khác, nhưng Cats cần phải công diễn trường kỳ thì mới sinh lời.

Năm 1998, phiên bản Nhật hóa này được cải biên lớn về các mặt vũ đạo, thiết kế sân khấu và phục trang. Kết quả là hiện giờ tộc mèo Jellicles có 27 nhân vật, Jemina và Sillabub được tách ra làm hai nhân vật riêng biệt, đồng thời xuất hiện một nhân vật hoàn toàn mới tên Gilbert.

, Cats được công diễn ở một nhà hát ở Tokyo được xây riêng chỉ dành cho vở kịch này. Ước tính vở nhạc kịch đã được xem bởi hơn 10 triệu khán giả Nhật Bản và có hơn 10.000 buổi diễn.

Vở nhạc kịch cũng quy tụ nhiều diễn viên nổi bật của Nhật Bản, như Shintarō Sonooka trong vai Munkustrap (1983), Kanji Ishimaru vai Skimbleshanks (1992), Masachika Ichimura cùng Mayo Kawasaki.

Viên, Áo

thumb|nhỏ|phải|Diễn tại một sự kiện ở Đức năm 2011. Dưới sự dẫn dắt của đạo diễn Peter Weck, bản chuyển thể tiếng Đức đầu tiên lên sân khấu Theater an der Wien vào tháng 9 năm 1983. 5 năm sau, vở kịch được thuyên chuyển qua nhà hát Ronacher vừa mới được tu sửa lại và diễn ở đây thêm 2 năm nữa trước khi kết thúc vào tháng 9 năm 1990, đánh dấu 7 năm công diễn. Vở nhạc kịch có sự góp mặt của Ute Lemper vai Bombalurina, Steve Barton vai Munkustrap, Robert Montano vai Pouncival Năm 1987, đợt diễn này cũng xuất hiện một số buổi nhất định ở nhà hát opera Komische Oper Berlin ở Đông Đức cũng như tại nhà hát Operretta Moscow ở Liên Xô vào năm 1988.

Từ tháng 9 năm 2019, công ty Vereinigte Bühne Wien cho sản xuất lại vở nhạc kịch Cats tại nhà hát Ronacher.

Đức

Nhìn thấy sự thành công từ phiên bản của Viên, công ty Stella Entertainment cho sản xuất phiên bản nội địa Đức ở nhà hát Operettenhaus mới được tu sửa lại ở thành phố Hamburg, bắt đầu ra mắt từ tháng 4 năm 1986. Cats là sản phẩm sân khấu đầu tiên của nước Đức được sản xuất mà không cần đến ngân sách công, đồng thời còn là vở nhạc kịch đầu tiên công diễn nhiều năm liền. Vở nhạc kịch còn thúc đẩy phát triển du lịch của thành phố Hamburg. Ước tính khách du lịch đã chi ra 200 triệu mác (tương đương 265 tỉ đồng) cho tiền vé, còn số khách du lịch trọ qua đêm tăng lên 1 triệu người trong vòng 5 năm.

Sau Hamburg, Cats được thuyên chuyển xuống thành phố Stuttgart và diễn ở đó đến năm 2002. Sau đó được chuyển giao cho công ty Stage Entertainment. Kết quả là vở kịch được chuyển lên Berlin diễn trong những năm 2002–2004, rồi Düsseldorf (2004–2005) trước khi đi lưu diễn đến năm 2006. Một đợt lưu diễn Cats do công ty Mehr Entertainment tổ chức diễn ra từ tháng 12 năm 2010 đến tháng 6 năm 2013, có đi qua các thành phố của Luxembourg, Thụy Sĩ và Áo.

Nội dung

Màn I

Tộc mèo Jellicle tự giới thiệu về mình và mục đích của bộ tộc ("Jellicle Songs for Jellicle Cats"), rồi giải thích cho các khán thính giả lí do tại sao loài mèo lại có nhiều tên ("The Naming of Cats"). Sau khi cô mèo Victoria mở đầu Vũ hội Jellicle bằng một màn múa ba lê ("The Invitation to the Jellicle Ball"), người dẫn chuyện Munkustrap thông báo rằng tộc trưởng Old Deuteronomy cũng sẽ đến tham dự để chọn ra một mèo sẽ được đầu thai chuyển kiếp. Munkustrap giới thiệu ứng cử viên đầu tiên – cô mèo béo Jennyanydots. Tuy thích nằm chây ì cả ngày nhưng khi đêm đến, cô lại hoạt động năng nổ, dạy lũ chuột nhắt và lũ gián các cách để bỏ các thói hư tật xấu ("The Old Gumbie Cat"). Liền ngay sau đó, Rum Tum Tugger xuất hiện và tự giới thiệu mình là một chú mèo tính khí tò mò, cả thèm chóng chán ("The Rum Tum Tugger"). Một cô mèo xám ăn mặc rách rưới bước ra tỏ ý muốn nhập hội, nhưng lũ mèo ngoảnh mặt đi và kể lại quá khứ huy hoàng của cô bằng giọng điệu mỉa mai ("Grizabella: The Glamour Cat"). Tiếp theo là Bustopher Jones – một chú mèo hộ pháp, thuộc giới thượng lưu và được mọi người kính nể ("Bustopher Jones: The Cat About Town"). Một tiếng nổ lớn gây chấn động khiến lũ mèo bỏ chạy, thấy thế bộ đôi Mungojerrie và Rumpleteazer nổi tiếng quậy phá liền xuất hiện trên sân khấu ("Mungojerrie and Rumpleteazer").
Cuối cùng thì trưởng tộc Old Deuteronomy cũng tới – một cụ mèo lớn tuổi thông thái ("Old Deuteronomy"). Bầy mèo diễn một vở kịch cho trưởng tộc xem, kể về 2 cẩu tộc xung đột nhau rồi bị mèo Rumpus vĩ đại gầm gừ đuổi đi ("The Battle of Pekes and the Pollicles"). Sau khi buổi lễ chính thức bắt đầu dưới ánh trăng tròn ("The Jellicle Ball"), Grizabella lại xuất hiện, cố hòa mình nhưng chỉ nhận được sự dè chừng của tộc mèo ("Grizabella: The Glamour Cat (Reprise)"; "Memory (Prelude)").

Màn II

Thương cảm cho Grizabella, Old Deuteronomy tự hỏi "Hạnh phúc là gì?". Thấy bầy mèo không bắt được hàm ý của mình, Old Deuteronomy nhờ Jemina cắt nghĩa đơn giản hơn: nếu tìm được ý nghĩa của hạnh phúc từ hồi ức thì cuộc sống mới sẽ bắt đầu ("The Moments of Happiness"). Cụ mèo Gus lên sân khấu. Từng là một diễn viên nổi tiếng, giờ cụ đã già và mắc chứng palsy, khiến tay chân cụ lúc nào cũng run lẩy bẩy ("Gus: The Theatre Cat"). Gus hồi tưởng lại lúc cụ từng đóng vai thuyền trưởng hải tặc khét tiếng Growltiger ("Growltiger's Last Stand"). Sau đó, Skimbleshanks, chú mèo chuyên làm việc trên chuyến tàu đêm đến miền Bắc nước Anh, kể tộc mèo nghe về công việc của mình ("Skimbleshanks: The Railway Cat").

Demeter và Bombalurina giới thiệu về Macavity – một tên mèo tội phạm cực kỳ mưu mô xảo quyệt ("Macavity: The Mystery Cat"). Macavity xuất hiện và bắt cóc Old Deuteronomy, sau đó quay lại dưới lốt Old Deuteronomy nhưng bị Demeter vạch trần rồi ẩu đả với Munkustrap và Alonzo. Nhưng các mèo khác cũng tập hợp lại nhằm hội đồng Macavity nên y chạy trốn. Rum Tum Tugger gọi ảo thuật gia Mr. Mistoffelees đến ("Magical Mr. Mistoffelees") và mang Old Deuteronomy trở lại. Jemina thông báo với cả tộc rằng màn đêm sắp qua đi ("Daylight") nên bộ tộc phải nhanh chóng ra quyết định. Đúng lúc này thì Grizabella quay lại, bộc bạch sự hồi tưởng về quá khứ huy hoàng và niềm hy vọng vào tương lai ("Memory"). Bầy mèo chấp nhận Grizabella. Old Deuteronomy hộ tống cô lên thiên đường (Heaviside Layer) ("The Journey to the Heaviside Layer") rồi quay lại kết thúc vở nhạc kịch bằng bài hát "The Ad-dressing of Cats".

  • Woodwind I: Sáo Flute, saxophone tenor, saxophone soprano

  • Woodwind II: Clarinet B♭, saxophone baritone, sáo Flute

  • Woodwind III: Ô-boa, kèn cor anglais

  • Horn I

  • Horn II

  • Trumpet I: Trumpet B♭, trumpet piccolo

  • Trumpet II: Trumpet B♭, flugelhorn

  • Trombone

  • Keyboard I (acoustic hoặc điện tử)

  • Keyboard II

  • Keyboard III

  • Bộ gõ (percussion)

  • Cello

  • Guitar: điện tử và acoustic

  • Bass điện tử upright

  • Trống

Nhân vật

Cats là một vở nhạc kịch không phân các tuyến vai chính và vai phụ.

Diễn viên

Đón nhận

Phòng vé

Trong hai năm 1985–1986, Cats là vở nhạc kịch có doanh thu cao nhất Broadway với gần 24 triệu đô la Mỹ mỗi năm. Khi chấm dứt đợt diễn dài 18 năm vào năm 2000, công ty chủ quản đã thu về 388 triệu đô la Mỹ tiền doanh thu. Trên quy mô toàn cầu, tổng doanh thu của Cats tính đến năm 1994 lên đến 2 tỉ đô la Mỹ khiến đây trở thành vở nhạc kịch có doanh thu cao nhất thế giới. Vào năm 2012, báo The Economist ước tính tổng doanh thu toàn cầu là 2,8 tỉ đô la Mỹ. Tác gia Michael Billington từ thời báo The Guardian ca ngợi vở nhạc kịch "đã xóa tan tin đồn rằng nhạc kịch chuyển thể từ tác phẩm văn học thường khiến nguyên tác mất chất", "được dựa trên một nền tảng [cốt truyện] vững chắc" và "các bài thơ đã được chuyển thể một cách khéo léo". Đồng thời cũng bày tỏ rằng ông "ấn tượng" với tổng quan dựng sân khấu của Napier, khâu biên đạo múa "có những đoạn xuất sắc", và "vở kịch tràn ngập vũ đạo nhưng không làm cho ngôn từ hay sự phân hóa tính cách nhân vật bị lu mờ". Cây bút Derek Jewell của The Sunday Times và Peter Hepple của The Stage đều lần lượt khen Cats là "một trong những vở nhạc kịch sôi nổi và cách tân nhất từng được tạo dựng"

Cũng có những bình luận ít tích cực hơn, đơn cử là Irving Wardle của báo The Times cho rằng ông thích phần nhạc của Lloyd Webber nhưng phần nhìn có phần thái quá.

Phiên bản làm lại của năm 2014 và 2015 cũng nhận được những phản hồi tích cực với số điểm trung bình 4/5 sao từ các nhà phê bình. Vở kịch được nhận định chung là "khiến cho khán giả cảm thấy thích thú" và "có bầu không khí sôi động", dù Mark Shenton cũng nêu lên rằng cách tổ chức sân khấu của phiên bản mới này không làm cho khán giả hòa mình vào khung cảnh của vở kịch như phiên bản gốc.

Broadway

Phiên bản này nhận được những ý kiến đa chiều hơn. Frank Rich của The New York Times khen rằng Cats thành công trong việc "phân tách tính cách các nhân vật khác nhau bằng các cử chỉ, điệu bộ riêng" và đã "đưa khán giả đến một thế giới kì ảo chỉ có thể tồn tại trong nhà hát". Tuy nhiên, ông cũng cho rằng vở kịch đã "thất bại trong việc kể một câu chuyện thật sự" còn "các động tác vũ đạo được biểu diễn trên một nền nhạc jazz và ba lê rập khuôn". Nhà phê bình Clive Barnes cho rằng mấu chốt của Cats "nằm ở sự toàn tâm toàn ý. Nó là một sự tự khẳng định mình của nghệ thuật nhạc kịch, khiến người ta không thể nhắm mắt làm ngơ, khiến người ta tranh cãi và khiến người ta không thể quên được."

Giải thưởng

Cats đã nhận được nhiều giải thưởng và đề cử lẫn trong và ngoài nước. Bản gốc của Luân Đôn được đề cử cho 6 hạng mục tại lễ trao giải Laurence Olivier vào năm 1981 và thu về hai chiến thắng, trong đó phải kể đến hạng mục Nhạc kịch mới hay nhất. Hai năm sau, phiên bản của Broadway thắng 7 giải Tony (bao gồm các hạng mục Nhạc kịch hay nhất và Âm nhạc xuất sắc nhất) trong tổng số 11 đề cử nhận được. Album phòng thu của cả Luân Đôn lẫn Broadway đều nhận được đề cử Grammy cho Album nhạc kịch xuất sắc nhất. Năm 2015, đợt sản xuất lại của Luân Đôn cũng nhận được 2 đề cử Olivier, trong đó có hạng mục Nhạc kịch làm lại hay nhất.

Chuyển thể

Phim Cats (1998) là một bản ghi hình của đạo diễn David Mallet, quay trực tiếp trên sân khấu Adelphi Theatre ở Luân Đôn năm 1997. Đầu tiên các bài hát được thu âm trước, rồi vở nhạc kịch được diễn trên sân khấu với 16 camera để lấy được nhiều góc quay. Bản ghi hình này được phát hành dưới dạng băng VHS, DVD, Blu-ray cũng như được phát sóng trên các kênh truyền hình BBC của Anh, PBS và Ovation TV của Hoa Kỳ.

Năm 2019, bản chuyển thể thành phim điện ảnh Cats do Tom Hooper đạo diễn đã ra mắt khán giả ngày 20 tháng 12 năm 2019. Phim do các công ty Working Title Films, Amblin Entertainment, Perfect World Pictures, Monumental Pictures và The Really Useful Group đồng hợp tác sản xuất, Universal Pictures chịu trách nhiệm phân phối. Phim có sự góp mặt của các diễn viên Judi Dench vai Old Deuteronomy, Jennifer Hudson vai Grizabella, Francesa Hayward vai Victoria.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Cats_** (tạm dịch: "Tộc mèo") là một vở nhạc kịch thuần hát xuất xứ từ Anh do Andrew Lloyd Webber sáng tác dựa trên tuyển tập thơ _Old Possum's Book of Practical Cats_ của T.
**_Những người khốn khổ_** (tiếng Pháp: _Les Misérables_, , hay còn được gọi là **_Les Mis_** ) là một vở nhạc kịch xuất xứ từ Pháp, chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên năm 1862
**_Cats: Những chú mèo_** (tên gốc tiếng Anh: **_Cats_**) là một bộ phim nhạc kịch giả tưởng năm 2019 dựa trên vở nhạc kịch cùng tên năm 1981 của Andrew Lloyd Webber, dựa trên tuyển
right|thumb|_Cats_ tại nhà hát New London Theatre, ảnh chụp năm 1999. **_Cats_** là một vở nhạc kịch thuần hát xuất xứ từ Anh do Andrew Lloyd Webber sáng tác dựa trên tuyển tập thơ _Old
**Cats Don't Dance** là một bộ phim hài nhạc kịch Hoa Kỳ năm 1997 được phân phối bởi Warner Bros. Family Entertainment và đáng chú ý bởi tính năng hoạt hình đầy đủ duy nhất
**_Miss Saigon_** là một vở nhạc kịch sáng tác bởi Claude-Michel Schönberg và Alain Boublil, lời do Richard Maltby, Jr.. Công diễn lần đầu tiên tại Nhà hát Hoàng Gia, Drury Lane, tại London vào
**Ock Joo-hyun** (; đôi khi đánh vần là **Ock Ju-hyun**; sinh ngày 20 tháng 3 năm 1980) là một ca sĩ và diễn viên nhạc kịch Hàn Quốc, được biết đến chủ yếu với vai
**Đại hội Nhạc trẻ** () là một sự kiện văn hóa thường niên được tổ chức trên địa phận Sài Gòn giai đoạn 1964-74. ## Lịch sử ### 1964 - 1969 Trong thập niên 1960,
**Andrew Lloyd Webber, Baron Lloyd-Webber** (sinh ngày 22 tháng 3 năm 1948) là một nhà soạn nhạc và bầu sô nhạc kịch người Anh. Một số vở nhạc kịch của ông đã được diễn trong
**Victor-Marie Hugo** (; (26 tháng 2, 1802 - 22 tháng 5, 1885 tại Paris) là một chính trị gia, thi sĩ, nhà văn, và kịch gia thuộc chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng của Pháp.
**Bee Gees** là một nhóm nhạc được thành lập vào năm 1958, bao gồm 3 anh em Barry, Robin và Maurice Gibb. Bộ ba đặc biệt thành công vào cuối những năm 1960 và đầu
**_Music of the Night_** (hay **_The Broadway Album_**) là album phòng thu của ca sĩ Đức Tuấn, được phát hành vào tháng 7 năm 2009 bởi Hãng phim Phương Nam. Album bao gồm 11 ca
**Giải Grammy lần thứ 61** được tổ chức vào ngày 10 tháng 2 năm 2019 tại Trung tâm Staples, Los Angeles. Nữ ca sĩ kiêm người viết bài hát Alicia Keys là người chủ trì
**Michelle Marie Pfeiffer** (; sinh ngày 29 tháng 4 năm 1958) là một nữ diễn viên người Hoa Kỳ. Được biết đến với những vai diễn đa dạng từ nhiều thể loại phim, cô được
**Neil Patrick Harris** (sinh ngày 15 tháng 6 năm 1973) là một nam diễn viên, nhà sản xuất chương trình và đạo diễn người Mỹ. Anh được biết đến rộng rãi nhờ vai diễn Barney
**Taylor Alison Swift** (sinh ngày 13 tháng 12 năm 1989) là một nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ. Cô là người sở hữu phong cách sáng tác nhạc mang
**Kang Dae-sung** (, sinh ngày 26 tháng 4 năm 1989) hay còn được biết đến nhiều hơn với nghệ danh **Daesung** (hay **D-Lite** tại Nhật Bản), là một nam ca sĩ, diễn viên và người
**Sarah Brightman** (sinh 14 tháng 8 năm 1960) là một ca sĩ, diễn viên, nhạc sĩ và vũ công người Anh. Cô bắt đầu sự nghiệp là thành viên của nhóm vũ công Pan's People
**LaDonna Adrian Gaines** (31 tháng 12 năm 194817 tháng 5 năm 2012), được biết đến bởi nghệ danh **Donna Summer**, là nữ ca sĩ, người viết bài hát và họa sĩ người Mỹ. Bà nổi
**Dame Margaret Natalie Smith** (28 tháng 12 năm 1934 – 27 tháng 9 năm 2024) được biết đến là một trong những diễn viên ưu tú của Anh. Bà xuất hiện lần đầu tiên trên
**John Winston Ono Lennon** (tên khai sinh: **John Winston Lennon**; 9 tháng 10 năm 19408 tháng 12 năm 1980) là nam ca sĩ, nhạc sĩ, nhạc công và nhà hoạt động hòa bình người Anh,
**_The Cat in the Hat_** (bản dịch tiếng Việt xuất bản với tựa đề **_Chàng Mèo Mang Mũ_**) là cuốn sách thiếu nhi do tác giả người Mỹ Theodor Geisel sáng tác và minh
là xê-ri anime dài tập do Tatsunoko Production và Sotsu Agency phối hợp sản xuất. Loạt phim được phát sóng đầu tiên trên kênh truyền hình TV Tokyo tại Nhật Bản từ ngày 1 tháng
**Kim So-hyun** (, sinh ngày 4 tháng 6 năm 1999) là một nữ diễn viên người Hàn Quốc. Cô bắt đầu sự nghiệp diễn xuất từ năm 7 tuổi, ban đầu cô nhận được sự
**Magdalena Ewa Tul** (sinh ngày 29 tháng 4 năm 1980) là ca sĩ và nhà soạn nhạc Ba Lan. Năm 2000, cô chuyển từ Gdańsk đến Warszawa và khởi nghiệp nói đây. Cô làm diễn
**Rock** là một thể loại âm nhạc quần chúng được bắt nguồn từ cách gọi ngắn gọn của cụm từ "rock and roll" vào những năm 1950 ở Mỹ, rồi sau đó phát triển thành
**_Make Mine Music_** là bộ phim hoạt hình dạng tuyển tập năm 1946 của Hoa Kỳ do Walt Disney sản xuất và được phát hành tới các rạp vào ngày 20 tháng 4 năm 1946.
**Susan Magdalane Boyle** (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1961) là một ca sĩ người Scotland, là một hiện tượng bất ngờ được lan truyền trên mạng Internet vào đầu năm 2009. Xuất hiện lần
**Roman Bunka **(2 tháng 12 năm 1951 – 12 tháng 6 năm 2022) là một nghệ sĩ guitar, đàn oud và nhà soạn nhạc hoạt động trong các ban nhạc nhạc thế giới và jazz
**Holly P. Hunter** (sinh ngày 20 tháng 3 năm 1958) là một nữ diễn viên truyền hình và điện ảnh người Mỹ, đã đoạt giải Oscar cùng nhiều giải khác. Cô nổi tiếng nhờ các
**Mèo Thomas "Tom"** là một nhân vật hư cấu, một trong hai nhân vật chính trong loạt phim hoạt hình _Tom và Jerry_ của Metro-Goldwyn-Mayer. Được sáng tạo bởi William Hanna và Joseph Barbera, Tom
nhỏ **Mèo nhị thể**, còn có thể gọi là _mèo hai màu lông_, là một con mèo có lông trắng kết hợp với một số màu lông khác, ví dụ như màu đen hoặc đốm.
**Lee Chung-ah** (Hangul: 이청아, Hanja: 李清娥, Hán-Việt: Lý Thanh Nga, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1984) là một nữ diễn viên người Hàn Quốc trực thuộc công ty giải trí KINGS Entertainment. Cô được
**Sean Patrick Hayes** Anh cũng điều hành một công ty sản xuất truyền hình có tên Hazy Mills Productions, chuyên sản xuất các chương trình như _Grimm_, _Hot in Cleveland_, _The Soul Man_, và _Hollywood
**Đại học Quốc tế Florida** là một trường đại học nghiên cứu công lập với khuôn viên chính tại University Park, Florida, Hoa Kỳ. Được thành lập vào năm 1965 bởi Quốc hội Florida, trường
**Vụ án Tamám Shud**, còn được gọi là **bí ẩn của người đàn ông Somerton**, là một vụ án chưa được giải quyết về cái chết của một người đàn ông không xác định
**_Tom và Jerry_** () là một series phim hoạt hình của Mỹ được chiếu trên truyền hình và rạp hát với nhiều thể loại từ phim ngắn cho tới phim dài. Được sản xuất bởi
**_Đại chiến chó mèo: Kitty Galore báo thù_** (tựa tiếng Anh: **_Cats & Dogs: The Revenge of Kitty Galore_**, hay **_Cats & Dogs 2_** hoặc **_Cats & Dogs 2: The Revenge of Kitty Galore_**) là
**BMO Field** là một sân vận động ngoài trời tọa lạc tại Exhibition Place ở Toronto, Ontario, Canada, là sân nhà của Toronto FC của Major League Soccer và Toronto Argonauts của Canadian Football League.
**Sarawak** (Phiên âm tiếng Việt: Sa-ra-vác) là một trong hai bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sabah). Lãnh thổ này có quyền tự trị nhất định trên lĩnh vực hành chính, nhập
"**Carolina**" là một bài hát do ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Taylor Swift viết và thu âm cho album nhạc phim của bộ phim chính kịch bí ẩn giật gân _Xa ngoài
là một máy chơi trò chơi điện tử cầm tay, do Nintendo phát triển và chế tạo. Máy công bố tháng 3 năm 2010 và chính thức ra mắt tại E3 2010 với tư cách
**Ian Fraser Kilmister** (24 tháng 12 năm 1945 – 28 tháng 12 năm 2015), được biết đến với nghệ danh **Lemmy**, là nhạc sĩ, ca sĩ, người viết bài hát và là thủ lĩnh của
Dưới đây là danh sách những cái chết đáng chú ý trong **tháng 5 năm 2011**. ## Tháng 5 năm 2011 ### 31 *Pauline Betz, 91, vận động viên quần vợt người Mỹ. [http://www.csnwashington.com/05/31/11/Tennis-legend-Pauline-Betz-Addie-passes-/landing.html?blockID=530815&feedID=9656] ###
**Michał Paweł Piróg** (sinh ngày 28 tháng 5 năm 1979 tại Kielce ☃☃) là vũ công, biên đạo múa, người dẫn chương trình truyền hình, diễn viên người Ba Lan. ## Cuộc đời và sự
**_2 Ngày & 1 Đêm_** (2 Days & 1 Night) (; cũng được biết đến như **_1 Night 2 Days_**; viết tắt là **_1N2D_**) là một chương trình truyền hình thực tế - tạp kĩ
"**Love Potion No. 9**" là một bài hát nổi tiếng được viết vào năm 1959 bởi Jerry Leiber và Mike Stoller. Ban đầu nó được trình bày bởi The Clovers,. Bài hát mang màu sắc
**Park Ju-hyun** (Hangul: 박주현 , Hanja: 朴柱炫, Hán-Việt: Phác Trụ Huyễn; sinh ngày 5 tháng 10 năm 1994) là một nữ diễn viên người Hàn Quốc trực thuộc công ty giải trí 935 Entertainment. Cô
nhỏ|phải|Hình minh họa về các loài mèo lớn trong Họ Mèo **Mèo lớn** hay **đại miêu** (tên tiếng Anh thông dụng là **big cats**) là một thuật ngữ dùng để chỉ về năm loài trong
là một loạt manga _shōnen_ tiếng Nhật được viết và minh họa bởi Kaneda Yōsuke. Bộ truyện được đăng định kỳ trên tạp chí _Bessatsu Shōnen Magazine_ của Kodansha năm 2015 và chuyển sang tạp