✨Mèo lớn

Mèo lớn

nhỏ|phải|Hình minh họa về các loài mèo lớn trong Họ Mèo Mèo lớn hay đại miêu (tên tiếng Anh thông dụng là big cats) là một thuật ngữ dùng để chỉ về năm loài trong Chi Báo thuộc Họ Mèo có khối lượng cơ thể lớn và đô con, đồng thời đều có khả năng cất tiếng gầm, chúng bao gồm hổ, sư tử, báo đốm, báo hoa mai và báo tuyết. Thuật ngữ "mèo lớn" không phải là một ngữ chuyên ngành phân loại sinh học mà là thuật ngữ được sử dụng chính thức để phân biệt các loài mèo này với các loài mèo khác nhỏ hơn. Cả bốn loài mèo lớn đều là những động vật ăn thịt đầu bảng trong hệ sinh thái của mình với khả năng săn mồi siêu hạng. Chúng cũng là những loài mãnh thú rất hung dữ, đầy sức mạnh và nguy hiểm; được xem là mối đe dọa và khủng bố cho con người, tiêu biểu là các loài hổ, sư tử và báo hoa mai. Chỉ tính riêng trong một thập kỷ qua, các loài mèo lớn đã giết hại khoảng 100 người ở khu vực Mumbai ở Ấn Độ.

Các loài

Các loài mèo lớn được xếp hạng với các thành viên chính theo mức độ kích thước và khối lượng to lớn của cơ thể và biết gầm, gồm: Hổ, Sư tử, Báo đốm, Báo hoa mai. Trong bốn thành viên này thì hổ là lớn nhất, sau đó là sư tử và báo đốm, trong khi báo hoa mai và báo tuyết xếp ở vị trí thứ tư và thứ năm. Một định nghĩa mở rộng hơn của thuật ngữ "mèo lớn" cũng bao gồm các loài mèo có kích thước và thể vóc tương tự hơn gồm Báo sư tử, Báo săn và báo tuyết.

Các thành viên chính thức của mèo lớn đều có khả năng cất tiếng gầm vang và là những động vật săn mồi và là những loài mãnh thú hung dữ. Mặc dù có sự khác biệt rất lớn trong kích thước, các loài khác nhau họ mèo là khá giống nhau trong cả hai cấu trúc cơ thể và hành vi, với ngoại lệ đối với loài mèo lớn mở rộng là báo săn (cấu trúc cơ thể khác biệt, móng vuốt không thu vào được, không cất được tiếng gầm), đó là đáng kể khác nhau từ bất kỳ của những con mèo lớn hay nhỏ. Tất cả các loài mèo này đều là động vật ăn thịt và được xếp là động vật ăn thịt đầu bảng. Phạm vi phân bố của chúng gồm các nước ở châu Phi, châu Á và châu Mỹ.

Khả năng cất tiếng gầm gừ và gầm rống là một đặc trưng điển hình của mèo lớn (chỉ có bốn loài mèo lớn nhất mới có thể gầm). Trong đó thanh quản của sư tử là dài nhất, cho chúng tiếng gầm lớn nhất và mạnh mẽ nhất với cường độ không khác gì trong một buổi biểu diễn nhạc rock. Báo tuyết không cất được tiếng gầm mà chỉ có thể phát ra tiếng gừ gừ. Báo săn không gầm được, chúng chỉ phát ra tiếng kêu líu ríu như chim chóc, khi giận giữ, chúng nhăn mặt và phát ra tiếng khè khè. nhỏ|phải|Hình minh họa về các loài mèo lớn:
a) Số 1 và số 2: Sư tử
b) Số 3: Hổ
c) Số 4: Báo đốm
d) Số 5: Báo hoa mai
e) Số 6: Báo tuyết

  • Chi Báo (có thể gầm hoặc có kích thước lớn) _Panthera tigris (_Hổ): Châu Á Panthera leo (Sư tử): Châu Phi, rừng Gir ở Ấn Độ; trước đây từng phân bố ở Đông Nam Âu, Trung Đông, nhiều nơi ở Châu Á và Bắc Mỹ _Panthera onca (_Báo đốm): châu Mỹ đặc biệt là ở Nam Mỹ; phân bố luôn ở Đông Nam Hoa Kỳ và México đến Đông Bắc Argentina) _Panthera pardus (_Báo hoa mai): Châu Á và Châu Phi ** _Panthera uncia (_Báo tuyết): những vùng núi thuộc Trung Á và Nam Á
  • Chi Acinonyx **_Acinonyx jubatus (_Báo săn): Châu Phi và Iran; trước đây có tồn tại ở Ấn Độ
  • Chi Puma **_Puma concolor (_Báo sư tử): Bắc Mỹ và Nam Mỹ
  • Chi Báo gấm _Neofelis nebulosa (_Báo gấm): Đông Nam Á và Nam Á Neofelis diardi (Báo gấm Sunda): Borneo và Sumatra

Bảng quan hệ họ hàng:

Sau khi phân tích gen của loài hổ Siberi và so sánh nó với gen của loài hổ Bengal trắng, sư tử châu Phi, sư tử trắng châu Phi và báo tuyết cho thấy chuỗi các gen nổi bật của các loài thuộc Họ Mèo này có những đặc điểm giống nhau, chuỗi gen giống nhau này tạo cho chúng sức mạnh cơ bắp cũng như khả năng chuyển hóa thức ăn ở loài động vật có chế độ ăn trên 70% là thịt (được gọi là động vật chuyên ăn thịt hay hypercarnivorous) này, tuy nhiên, cũng có những biến thể quyết định sự khác nhau như màu lông hay trong trường hợp của báo tuyết, chỉ có khả năng thích nghi với môi trường sống trên cao và lạnh giá.

So sánh

Bảng chi tiết so sánh (một cách tương đối) các chỉ số có thể thống kê hoặc nhận định được của các loài mèo lớn. Đối với một số số liệu thống kê thì sử dụng số liệu trung bình lớn nhất.

Kích thước

  • Khối lượng: Hổ: Là loài động vật có khối lượng nặng nhất trong Họ Mèo với trọng lượng cơ thể trung bình lớn nhất lên đến 306 kg (670 lb) đối với một con đực. Với trọng lượng này thì hổ là loài thú lớn thứ ba trong bộ thú ăn thịt (chỉ sau gấu Bắc Cực và gấu nâu). giữa|nhỏ|[[Hổ, đặc biệt là Hổ Mãn Châu là loài vật lớn nhất trong họ nhà mèo]] Sư tử: Là loài nặng thứ hai trong Họ Mèo sau hổ với trọng lượng cơ thể trung bình lớn nhất của một con đực là 250 kg (550 lb). Báo đốm: Một con báo đốm đực trưởng thành có thể đạt trọng lượng cơ thể lên đến 96 kg (211 lb). Báo hoa mai: Con đực có thể đạt 91 kg (200 lb). Đây là loài có khối lượng nhỏ nhất trong bốn con mèo lớn. ** Báo săn là loài nhẹ nhất và nhỏ nhất trong các loài mèo lớn (mở rộng) với trọng lượng con đực lớn nhất chỉ đạt khoảng 72 kg (160 lb). Khung xương nhẹ giúp con báo di chuyển nhanh và lanh lợi nhưng khung xương nhỏ có nghĩa là cơ thể nhỏ làm nó thường nhẹ hơn các loài săn mồi thậm chí ngay cả những con mồi.
  • Chiều dài: Hổ: Là động vật có chiều dài nhất với chiều dài trung bình lớn nhất của cơ thể tổng cộng lên đến 3,5 m (11,5 ft) cộng với chiếc đuôi dài lên đến 1,1 m (3,6 ft) đuôi hổ giữ vai trò quan trọng trong các động tác vồ, nhảy qua trái hoặc phải, xoay trở trước hoặc sau. Sư tử: Là loài có chiều dài kế tiếp với chiều dài lên đến 2,5 m (8 ft 2 in), riêng đối với sư tử thì cuối cái đuôi có một chùm lông che một phần xương dài khoảng 5 mm. Báo đốm: Chiều dài từ mũi đến gốc đuôi lên đến 1,95 m (6,4 ft). Đuôi dài khoảng 75 cm (30 in), ngắn nhất trong các loài mèo lớn. Báo hoa mai: Đầu và thân dài đến 1,65 m (65 in). Đuôi dài đến 1,1 m (43 in). ** Báo săn: Với chiều dài lên đến 1,5 m (59 in) và cái đuôi dài đến 90 cm (35 in) đuôi báo săn rất khỏe và đóng vai trò như một cái bánh lái phục vụ cho việc chuyển hướng tốc độ khi săn đuổi con mồi.
  • Chiều cao: Sư tử có chiều cao nhất với chiều cao cơ thể của con đực lên đến 1,23 m (4 ft), đặc biệt sư tử đực còn có chiếc bờm chiếc bờm phủ lên vóc dáng đô to và thói quen ngẩng cao đầu khi di chuyển tạo nên uy thế và sự bệ vệ và làm nó trông có vẻ lớn hơn. Nó là động vật cao nhất trong các loài mèo lớn còn tồn tại và cao hơn hổ khoảng khoảng 5 cm (2 in). Kế đến là hổ thuộc nòi hổ Mãn Châu có chiều cao lên đến 1,22 m (4,0 ft). Báo săn: Với chiều cao lên đến 94 cm (37 in), báo săn có ngoại hình mảnh khảnh, phù hợp với việc đua tốc độ nước rút. Với cấu trúc có chân dài và cơ thể mỏng hơn làm cho nó trông gọn hơn và cao hơn. Báo hoa mai: Chiều cao lên đến vai đạt 80 cm (31 in). ** Báo đốm: Con đực có chiều cao lên đến 76 cm (30 in) tính đến vai. Báo đốm là một động vật có ngoại hình nhỏ gọn cơ bắp chắc nịch và chân ngắn. nhỏ|phải|Sư tử là loài có [[chiều cao nhất trong Họ Mèo cùng với tiếng gầm vang nhất]]

Thể chất

  • Sức mạnh: Hổ là động vật được xem là có sức mạnh nhất, nhiều lần thắng trước sư tử trong các cuộc đấu tay đôi. Ngoài ra, chúng có thể di chuyển một vật nào đó nặng gấp năm lần trọng lượng cơ thể. Một con hổ từng được ghi nhận đã kéo xác một con bò tót đi xa đến 12 m, nhưng khi 13 người cùng vào kéo con vật xấu số này đi thì lại không thể di chuyển được nó.
    Kế tiếp là sư tử và hạng tiếp theo thuộc về báo đốm.
  • Lực cắn: Báo đốm: Có cấu trúc quai hàm khỏe nhất trong họ nhà Mèo điều này giúp nó có lực cắn mạnh nhất trong họ nhà mèo với một cú táp hay ngoạm đạt đến 2.000 lbf (910 kgf) gấp 02 lần lực cắn của sư tử và chỉ đứng thứ hai trong tất cả các động vật có vú chỉ sau loài linh cẩu đốm. Quai hàm đặc biệt khỏe cho phép báo đốm phát triển phương pháp giết con mồi khác với các loài khác thuộc họ nhà mèo: cắn và đâm thủng sọ con mồi thậm chí là cắn thủng cả mai rùa. Hổ là loài vật có lực cắn mạnh thứ hai. Loài hổ cũng đã được chứng minh là có lực cắn trung bình mạnh hơn lực cắn của những con sư tử, theo phân tích thì các lực cắn được xác định và điều chỉnh dựa trên khối lượng cơ thể tương quan (BFQ) cho kết quả là con hổ có chỉ số là 127 trong khi đó cho sư tử chỉ là 112. Sư tử có lực cắn mạnh tiếp theo do hàm khỏe. Báo hoa mai có lực cắn mạnh mặc dù cơ thể nhỏ nhưng có cấu trúc hộp sọ lớn tạo điều kiện cho các cơ hàm mạnh mẽ cho nên nó có thể săn được các con mồi lớn. ** Báo săn: Có lực cắn khá yếu ớt. Phần đầu nhỏ, gọn, mõm ngắn giúp nó đạt được tốc độ tối đa nhưng đổi lại là bộhàm yếu và răng nhỏ, răng và hàm không đủ khỏe để thực hiện được một đòn cắn hoặc mồm đủ to để ngoạm gọn vào những chỗ hiểm hoặc xé con mồi.
  • Lực tát: Hổ là động vật được biết đến với lực tát mạnh nhất, một cú tát của hổ có lực đủ để làm vỡ sọ một con gia súc, gãy lưng một con gấu lười và có thể giết tươi một con sói lửa hoặc làm trẹo cổ của trâu, bò nhà. Khả năng chiến đấu của hổ cao nhờ nhiều vào hổ trảo. Về cấu tạo, gân chân hổ rất dai và bền để giữ mồi và làm nó vẫn đứng vững khi đã bị bắn chết, Nhiều thợ săn kể rằng, sau khi bị bắn chết, nhiều con hổ vẫn đứng sững chứ không ngã nhào xuống đất. Sư tử cũng là loài vật được biết đến bởi sức mạnh của cú tát mạnh thứ nhì trong họ nhà mèo. ** Báo săn có lực chân tấn công tương đối yếu do cấu trúc mảnh khảnh và là động vật trong họ nhà mèo mà móng vuốt không thu vào trong và không rút lại hết để phù hợp việc việc chạy tốc độ. Đây là loài mèo có móng vuốt phụ với cái móng nhỏ dài 2,5 cm được đính vào kheo chân và đây là móng vuốt duy nhất không chạm mặt đất khi nó chạy nên cũng là móng vuốt sắc nhọn nhất, báo săn dùng nó để cắm vào hông con mồi những móng vuốt phụ cắm sâu vào con mồi nhưng những móng vuốt khác không giữa được con mồi.
  • Sức bật: ** Hổ là động vật có sức bật xa và bật cao nhất trong họ nhà mèo nó có thể nhảy cao 5 mét và nhảy xa 9 đến 10 mét (33 ft) điều này khiến nó trở thành một trong những loài động vật có vú có sức bật tốt.
  • Tốc độ: Báo săn là loài động vật có tốc độ chạy nhanh nhất trên thế giới, nó có thể chạy với tốc độc 70 mph (113 km) thậm chí có thể đạt tới tới 120 km/h nó có thể tăng tốc từ 0 đến 95 km chỉ trong vòng 03 giây và chỉ trong 2, 2 giây nó có thể tiếp cận con mồi, đồng thời chỉ cần 04 bước là đạt tốc độ tối đa trong điều kiện không có vật cản nhưng tốc độ này chỉ giữ được nhiều nhất là khoảng 25 giây và tối đa thì một đợt chạy nước rút này không quá 30 giây. Báo hoa mai sở hữu thân hình khá dẻo dai và có thể chạy nhanh tới 90 km/h dù chỉ trong một thời gian ngắn. Dù chạy rất nhanh nhưng chúng thường kiên trì rình mồi hơn là đuổi mồi từ xa Sư tử là loài động vật có tốc độ tốt (đặc biệt là những con cái chuyên làm nhiệm vụ săn mồi), phù hợp với việc rượt đuổi những con mồi trên thảo nguyên bao la, nó có thể đạt tốc độ lên đến 80 km/h tuy nhiên, trái tim của một con sư tử chỉ chiếm 0.57 % trọng lượng cơ thể của mình, con đực thì chiếm 0,45%, trong khi trái tim của linh cẩu là gần 1 % trọng lượng cơ thể của nó) điều này làm sư tử chỉ có thể tăng tốc trong thời gian ngắn. Báo đốm cũng chạy rất nhanh nhưng không bền. Loài báo này có tốc độ tối đa khoảng 70 km/h. ** Hổ cũng là động vật có tốc độ ngay cả với khối lượng tuyệt đồ sộ, hổ có thể chạy đến 65 km/h mặc dù nó chỉ có thể duy trì trong thời gian rất ngắn.
  • Tiếng gầm: Hổ là động vật có tiếng gầm vang nhất, tiếng gầm của nó có thể vang xa tới 9 km, do hộp sọ của hổ có lỗ mũi rộng hơn so với sư tử. Sư tử là động vật có tiếng gầm lớn tiếp theo, vang xa đến 5 km. Báo đốm và báo hoa mai hiếm khi gầm và tiếng gầm của chúng không to bằng sư tử và hổ. Báo săn không gầm được, nó chỉ phát ra tiếng rên gừ gừ hoặc khè khè. Bù lại, báo săn là loài tinh tường, chúng có thể phát hiện con mồi ở khoảng cách lên đến 5 km
  • Răng nanh: ** Hổ là loài vật có răng nanh dài nhất với cặp răng nanh dài lên đến 74.5 mm (2.93 in) thậm chí đạt đến 90 mm (3.5 in) điều này giúp hổ trở thành loài có răng nanh dài nhất trong số các loài mèo còn tồn tại ngày nay và nhờ đó chúng có thể gặm tới xương mọi động vật trên trái đất. và cũng là loài động vật rất phàm ăn, chúng có nhu cầu tiêu thụ thức ăn hàng ngày rất lớn. Những ước tính cho thấy, trung bình hổ ăn từ 3 đến 6 kg thịt trong một ngày và ước tính trung bình mỗi năm, một con hổ cần săn được 50 con hươu hoặc lợn rừng để cung cấp đủ nguồn thực phẩm cho sự tồn tại của chúng Một con hổ cũng có thể ăn tới 20–30 kg một ngày và có thể nhịn ăn khoảng vài ngày, trong đó một con hổ có kích thước trung bình có thể ăn tới 27 kg thịt mỗi bữa.

: Trong điều kiện nuôi nhốt, trung bình mỗi ngày hổ ăn hết khoảng 5–7 kg thịt các loại như thịt lợn, thịt gà, thịt bò (nhiều vườn thú cho hổ ăn 5 kg thịt một ngày, trong đó, có 4 kg thịt bò bắp, hoặc thăn và 1 kg sườn lợn, nếu hổ đến giai đoạn hổ trưởng thành thì có thể cho ăn các loại đầu, chân, cánh gà), mỗi ngày, một con hổ trưởng thành ăn 10 kg thịt bò., chúng cũng có thể ăn được bất cứ động vật nào có kích cỡ từ bọ hung trở lên

  • Đối với báo săn, nó đốt ít nhất 2500 calo mỗi ngày và những bữa ăn bằng con linh dương cung cấp gần 5000 calo sẽ giúp nó cung cấp năng lượng trong vòng 02 ngày. Khi không có thức ăn, con báo có thể cầm cự lâu như con người từ khoảng 5-6 ngày trước khi nó hoàn toàn kiệt sức. Thường là linh dương Thomson hay một con heo rừng là đủ cung cấp năng lượng cho một con báo săn no bữa. Đối với những con linh dương trưởng thành có thể cung cấp cho báo săn no bữa được khoảng từ 1-2 ngày. Sau khi đi săn xong, chúng sẽ đem xác con mồi về cất giấu ở một nơi nào đó ăn dần. Việc săn những con linh dương nhỏ sẽ cung cấp ít calo hơn và không thể duy trì lâu nhưng con linh dương trưởng thành với hơn 60 kg sẽ cung cấp nhiều hơn thức ăn cho báo.

Phân biệt

Giữa các loài mèo lớn

nhỏ|phải|Sư tử đực (trên) và sư tử cái (dưới) có thể dễ dàng phân biệt qua cái bờm đặc trưng Việc phân biệt các loài mèo lớn đôi khi cũng gặp khó khăn, nhất là những loài dị hình lưỡng tính không rõ rệt gồm 03/4 loài mèo lớn, báo săn, báo sư tử thì khá khó trong việc xác định con đực và con cái. Ngoài ra, việc phân biệt giữa báo hoa mai và báo đốm cũng không hề đơn giản vì hai loài này rất giống nhau đến gần như lầm lẫm. Hổ là loài có thể dễ dàng phân biệt với các loài mèo lớn khác với đặc trưng là bộ lông sọc vằn vện không lẫn vào đâu được, chỉ có hổ và mèo là thuộc nhóm họ mèo có sọc, chỉ khó là việc phân biệt được hổ đực với hổ cái.

Báo sư tử nhìn xa trông khá giống một con sư tử cái cỡ nhỏ hoặc sư tử đực còn non (vì vậy chúng còn được gọi là báo "sư tử" hay sư tử núi) do chúng là những loài mèo không có họa tiết trên bộ lông, cả hai loài đều có bộ lông không tạp màu và có màu nâu vàng, nhưng vẫn phân biệt được do cấu trúc của chúng mông dốc lên, phần thân sau to hơn thân trước (phù hợp cho những cú bật nhảy), trái ngược với sư tử thực thụ, cái đầu của báo sư tử có kích cỡ nhỏ so với tương quan cơ thể trái với sư tử, đuôi chúng không có chỏm lông, và điều hiển nhiên là báo sư tử có kích cỡ nhỏ hơn rất nhiều so với sư tử, kể cả sư tử cái, báo sư tử thì có vệt đen như tuyến lệ trên mặt. Báo sư tử có họ hàng gần với báo hoa mai hơn là sư tử.

Đối với sư tử đực thì rất dễ dàng nhận ra được bởi bờm của nó, dễ phân biệt với sư tử cái, cũng như phân biệt với bất kỳ loài động vật nào khác. Sư tử là thành viên duy nhất của gia đình mèo hiển thị hình thái lưỡng cực tình dục rõ ràng. Con đực mạnh hơn con cái, có đầu rộng hơn và bờm nổi bật, bao phủ phần lớn đầu, cổ, vai và ngực. Bờm thường có màu nâu hoặc màu vàng, rỉ sét và đen. Đặc điểm đặc biệt nhất ở sư tử là phân cuối đuôi có màu tối, riêng con đực có 1 túm lông ở cuối đuôi. Sư tử là loài thú họ mèo duy nhất có lông duôi, nhưng chức năng của chúng vẫn chưa được biết. Túm lông này chưa mọc lúc sư tử mới sinh, nhưng chúng bắt đầu phát triển khoảng 5 đến 2 tháng tuổi và dễ nhận biết ở tuổi bảy tháng. Sư tử là loài mèo duy nhất sống thành bầy đàn.

Báo hoa và báo đốm

Sự đa dạng của các loài mèo lớn được gọi là báo cũng gây khó khăn khi phân biệt, nếu như báo săn hay báo tuyết cũng như nhiều loài báo khác có thể dễ dàng nhận ra ngay vì cấu trúc cơ thể đặc biệt không giống các loại báo khác thì sự khác nhau giữa báo đốm (Jaguar) và báo hoa mai (Leopard) lại khác nhau khá nhỏ. Nhiều người cảm thấy lúng túng khi phân biệt báo đốm và báo hoa mai là những sinh vật với nhiều đốm hoa thị trên thân mình, ngoài ra, báo hoa mai và báo đốm còn bị nhầm lẫn nhất vì ngoại hình khá giống nhau, nhiều phân loài báo đốm và báo hoa mai có kích thước khá giống nhau. Tuy vậy, báo hoa mai có thể dễ dàng phân biệt với báo đốm Mỹ nếu người ta biết nhìn vào những điểm cần thiết.

Mỗi loài báo này đều có loại hoa văn hay họa tiết riêng biệt trên mình, điểm khác biệt cụ thể và chính xác nhất khi phân biệt hai loài báo này chính là các hoa văn hay hoa thị (đốm) trên người chúng mặc dù nhìn qua thì có vẻ cũng không khác biệt nhiều. Phần lớn báo hoa mai không có đốm trong các hoa thị mà báo đốm Mỹ luôn luôn có đốm nhỏ trong hoa thị này (chỉ có Báo hoa mai Amur và báo hoa mai Hoa Bắc thỉnh thoảng là ngoại lệ), tức là báo đốm Mỹ thì có đốm to và chấm tròn nhỏ ở giữa, còn báo hoa mai không có các chấm đen bên trong hình hoa thị trong khi báo đốm có nhiều hơn một đến hai đốm nhỏ bên trong, mật độ đốm thưa hơn, hoa thị của báo hoa mai thường nhỏ hơn báo đốm nên mật độ đốm hoa thị ở báo hoa mai cũng nhiều hơn báo đốm, trông dày đặc hơn, vòng viền hoa thị của báo đốm lớn hơn báo hoa mai, đốm của báo hoa mai chụm lại giống hình cánh hoa mai.

Điểm khác biệt thứ hai là màu da của báo hoa mai sáng hơn so với báo đốm, các loài báo đốm thường có da màu nâu đậm, sẫm hơn, có pha chút màu cam, trong khi màu lông báo hoa mai thì nhạt màu hơn, một số phân loài báo hoa mai thường có bộ lông thiên về màu xám xanh hơn. Về cấu trúc cơ thể, có thể phân biệt được hai loài này, báo hoa mai có chiều dài hơn báo đốm, chúng có thân hình thon thả, gọn gàng và cao dỏng hơn so với báo đốm, chân dài hơn, đặc biệt là đuôi của báo hoa mai dài hơn, khi di chuyển chúng hay dựng lên là cuộn cao. Trong khi đó, báo đốm lùn hơn, chân ngắn hơn, đuôi chúng ngắn cũn cỡn và thường không ngỏng lên khi di chuyển (chiều ngang tự nhiên), cơ thể báo đốm chắc nịch, cơ bắp hơn, ngoại hình giống hổ hơn, chúng nặng gần gấp đôi báo hoa mai, chúng có đầu to hơn, mặt rộng hơn, hàm rộng hơn báo hoa mai, khi chúng ngoắc mồm ra thì lớn hơn.

Về tập tính, báo hoa mai sinh sống ở châu Á và châu Phi, trong khi báo đốm sinh sống ở châu Mỹ (hiện nay chỉ con ở Trung Mỹ và Nam Mỹ). Báo đốm Mỹ đã quen với cuộc sống trong các rừng mưa nhiệt đới, thích sống gần nước, bơi lội tốt giống hổ hơn, trong khi báo hoa mai thông thường là tránh ẩm ướt, chúng thích sống ở vùng đồng cỏ khô, bìa rừng, rừng thưa, và là sống trên cây nhiều hơn. Báo đốm Mỹ khi săn mồi, chúng sẽ giết con mồi bằng cách tấn công vào đầu, cắn thủng sọ vì có hàm khỏe, đây là phương pháp đặc trưng của loài báo đốm so với tất cả các loài mèo lớn khác, chúng không trở lại để ăn xác con mồi sau khi ăn. Báo hoa mai giết con mồi bằng cách cắn cổ, làm nghẹt con mồi, chúng thường lôi xác con mồi đem lên cây để ăn. Báo đốm Mỹ đặc biệt có khẩu vị ưa các loài bò sát máu lạnh, nhất là chúng thích bắt và ăn thịt cá sấu, trong khi báo hoa mai không kén ăn, chén hết các thứ từ kích cỡ từ bọ hung trở lên, không chê xác thối, và đặc biệt báo hoa mai là kẻ thèm thịt chó.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|nhỏ|Hạt đậu mèo lớn
**1.** _[[Entada rheedii_
**2.** _Caesalpinia bonduc_
**3. a,b** _Mucuna gigantea_]] **Đậu mèo lớn** hay **đậu mèo to, móc mèo lớn** (danh pháp: **_Mucuna gigantea_**) là loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài
nhỏ|phải|Hình minh họa về các loài mèo lớn trong Họ Mèo **Mèo lớn** hay **đại miêu** (tên tiếng Anh thông dụng là **big cats**) là một thuật ngữ dùng để chỉ về năm loài trong
Bách Khoa Tri Thức Về Khám Phá Thế Giới Cho Trẻ Em - Các Loài Mèo Lớn Tái Bản 2018 Nội dung của bộ sáchBách Khoa Tri Thức Về Khám Phá Thế Giới Cho Trẻ
**Mèo** (chính xác hơn là **mèo nhà ** để phân biệt với các loài trong họ Mèo khác) là động vật có vú, nhỏ nhắn và chuyên ăn thịt, sống chung với loài người, được
**Maine Coon** hay **mèo lông dài Mỹ** là một nòi mèo nhà có đặc điểm kiểu hình đặc trưng và có kỹ năng săn mồi đáng nể. Nó là một trong những nòi mèo tự
**Họ Mèo** (**Felidae**) là một họ động vật có vú trong Bộ Ăn thịt (_Carnivora_). Các thành viên trong họ này thông thường được gọi là **"mèo"**. Thuật ngữ "mèo" vừa có thể chỉ về
nhỏ|phải|Lợn Ỉ **Các giống lợn được nuôi ở Việt Nam** bao gồm giống lợn bản địa, giống lợn nhập nội và các giống lai. ## Giống bản địa Hiện chưa xác minh được lợn ở
Năm 2005, **Winnie** là tên được đặt cho một con mèo lớn được nhìn thấy ở vùng Veluwe của Hà Lan. ## Bị bắt gặp Vào đầu tháng 6 năm 2005, một số trường hợp
Sách 3D Những Loài Thú Lớn Họ Mèo Cuốn sách cung cấp cho độc giả một cái nhìn tổng thể về nguốn gốc, tập quán sinh sống, sự phân bố cũng như thực trạng của
**Chi Cú mèo (Otus)** là một chi chim trong họ Họ Cú mèo. Chúng gồm khoảng 45 loài cú có kích thước từ nhỏ tới trung bình (chiều dài 16–35 cm, cân nặng 60-350 gram), nhanh
**Mèo Highlander** (còn được gọi là **Mèo lông ngắn Highlander**, và tên gọi ban đầu là **Mèo Highland Lynx**), là một giống mèo thử nghiệm. Ngoại hình độc đáo của mèo Highlander xuất phát từ
**Mèo Sokoke**, còn được gọi với cái tên dài và đầy đủ hơn là _Mèo rừng Sokoke_ và trước đây thì được gọi với tên gọi là _Mèo lông ngắn châu Phi_) là giống tự
**Viêm màng bụng truyền nhiễm ở mèo** (viết tắt là FIP) là một chứng bệnh miễn dịch bất thường, không phổ biến, nhưng thường gây tử vong cho mèo và cũng là sự phản hồi
** Mèo túi** (danh pháp khoa học: **_Dasyurus_**) hay còn gọi là **Quoll** hoặc **Cầy túi** là một loài thú có túi ăn thịt bản địa của lục địa Úc, New Guinea và Tasmania. Nó
nhỏ|phải|Một con mèo hoang nhỏ|Một con mèo con "hoang" (hình trái) và sau khi được thuần hóa chừng 3 tuần (hình phải). **Mèo hoang** hay còn gọi là **mèo mả** là những con mèo nhà
**Phân bộ Dạng mèo** (**_Feliformia_** hay **_Feloidea_**) là một phân bộ trong Bộ Ăn thịt (Carnivora), bao gồm các **thú ăn thịt "dạng mèo"** như các loài mèo (lớn và nhỏ), linh cẩu, cầy mangut,
**Lợn Mẹo** hay còn gọi là **lợn Mèo**, **heo Mẹo** là giống lợn của Người H'Mông, được nuôi tại các hộ gia đình thuộc một số xã miền núi trên địa bàn Nghệ An, Hà
nhỏ|phải|Bò bison châu Mỹ là loài thú trên cạn lớn nhất Tây Bán Cầu nhỏ|phải|Voi là loài thú lớn nhất trên cạn nhỏ|phải|Tê giác trắng là loài thú guốc lẻ lớn nhất **Các loài thú
**Mèo Savannah** là một giống mèo lai, nó là kết quả lai giống giữa một con Linh miêu đồng cỏ và một con mèo nhà. ## Đặc điểm ngoại hình và kỹ thuật chăm sóc
**Mèo cộc đuôi Nhật Bản** () là một nòi mèo nhà có đặc điểm nổi bật là chiếc đuôi rất ngắn, giống như đuôi của thỏ. Chiếc đuôi ngắn này là kết quả của một
**Gấu trúc lớn** (_Ailuropoda melanoleuca_, nghĩa: "con vật chân mèo màu đen pha trắng", , nghĩa "mèo gấu lớn", tiếng Anh: Giant Panda), cũng được gọi một cách đơn giản là **gấu trúc**, là một
**Mèo cát** (_Felis margarita_) hay **mèo đụn cát** là một loài mèo nhỏ thuộc chi Mèo và Họ Mèo sinh sống ở các vùng sa mạc của Châu Phi và Châu Á. (Tuy nhiên chúng
**Mèo chân đen** (_Felis nigripes_) là một loài mèo nhỏ thuộc Chi Mèo (_Felis_) trong họ Mèo. Chúng là loài mèo hoang nhỏ nhất, và cũng là một trong những loài động vật ăn thịt
**Mèo rừng châu Âu** (**_Felis silvestris_**) là một loài mèo rừng sinh sống ở những khu rừng mưa của Tây Âu, Trung Âu, Đông Âu và Nam Âu cũng như ở Scotland, Thổ Nhĩ Kỳ
**_Mèo túi hổ_** (Dasyurus maculatus), là một loài động vật có vú trong chi Mèo túi, họ Dasyuridae, bộ Dasyuromorphia. Loài này được Kerr mô tả năm 1792. Phân loài phía bắc D. m. gracilis,
**Mèo Ocicat** là một giống mèo nhà, có nét tương đồng với mèo hoang dã nhưng lại không có chứa DNA hoang dã trong nhóm gen của nó. Loài này có đặc điểm bất thường
**Họ Cú mèo** (danh pháp hai phần: **_Strigidae_**) là một trong hai họ được nhiều người chấp nhận thuộc Bộ Cú, họ kia là Họ Cú lợn. Họ này có khoảng 189 loài trong 24
**Mèo Xiêm** là một trong những loài mèo đầu tiên của mèo lông ngắn phương Đông được công nhận. Nguồn gốc của mèo Xiêm cho đến nay vẫn chưa được rõ ràng, nhưng Thái Lan
**Chi Mèo (Felis)** là một chi động vật có vú nằm trong Họ Mèo gồm các loài mèo kích thước nhỏ và vừa hầu hết có nguồn gốc từ châu Phi và phía nam vĩ
nhỏ|phải|Một con mèo đen, người ta đồn chúng rằng thích ngồi trên những gác ba của ngọn cây, hoặc leo lên những nóc nhà nhìn trừng trừng xuống **Mèo mun** hay còn gọi là **mèo
nhỏ|phải|Một con mèo Sphinx **Mèo Sphinx** hay còn gọi là **mèo không lông Sphinx** hay còn được biết đến là **mèo Canada** hoặc **mèo Mexico không lông** (được đặt tên theo hình ảnh nhân sư
**Mèo châu Á**, còn được gọi là **Mèo Malayan**, là một giống mèo tương tự như Mèo Miến Điện nhưng khác nhau ở chỗ chúng có nhiều màu sắc cũng như kiểu lông khác nhau.
**Mèo Bombay** là giống mèo lai tạo giữa mèo Miến Điện đen với Mèo đen lông ngắn Mỹ. Mèo Bombay chủ yếu mang trên mình các nét đặc trưng của mèo Miến Điện cùng bộ
**_Mèo đi hia_** (tựa tiếng Anh: **_Puss in Boots_**) là một bộ phim hoạt hình 3D Mỹ được sản xuất vào năm 2011 bởi hãng DreamWorks Animation, do Chris Miller làm đạo diễn. Phim nói
''' **_Mèo Oggy và những chú gián tinh nghịch_** (tiếng Pháp: Oggy et les Cafards, tiếng Anh: Oggy and the Cockroaches) là một bộ phim hoạt hình của Pháp được phối hợp sản xuất bởi
**Mèo Bali** là một giống mèo nhà lông dài với bộ lông mang màu sắc phong cách tương tự Mèo Xiêm và đôi mắt màu xanh ngọc bích. Mèo Bali cũng được biết đến với
**Mèo Mau Ả Rập** là một giống mèo nhà được công nhận chính thức, có nguồn gốc từ mèo sa mạc, Mau Ả Rập là một giống mèo lông ngắn có nguồn gốc từ sa
**_Mèo Oggy và những chú gián tinh nghịch: The Movie_** (, ) là một bộ phim điện ảnh hoạt hình Pháp thuộc thể loại hàiphiêu lưukỳ ảo do Olivier Jean-Marie viết kịch bản kiêm đạo
**Mèo Singapura** là một trong những giống mèo có kích thước nhỏ nhất, điểm điểm trưng là đôi mắt to và tai to, lông nâu và chiếc đuôi cụt. Được báo cáo thành lập từ
**Mèo Levkoy Ukraina** (tiếng Ukraina: _Український левкой_) là một giống mèo có ngoại hình khác biệt, có tai gấp và hướng vào trong và không có lông. Những con mèo giống này có kích thước
**Mèo Snowshoe** là một giống mèo có nguồn gốc ở Hoa Kỳ vào những năm 1960. Snowshoe lần đầu tiên được cho ra đời tại Philadelphia khi một con mèo của nhà lai tạo Mèo
**Mèo lông ngắn phương Đông** là một giống mèo nhà có liên quan mật thiết với Mèo Himalaya. Nó duy trì kiểu đầu và cơ thể Mèo Himalaya hiện đại nhưng lại có bề ngoài
**Mèo Pixie-bob** là một giống mèo nhà được cho là dòng dõi của giống lai mèo cụt đuôi tạp chủng trong tự nhiên. Tuy nhiên việc xét nghiệm DNA đã không phát hiện được gen
**Bọ chét mèo** (tên khoa học **_Ctenocephalides felis_**) là một trong những loài bọ chét phân bố rộng rãi và có số lượng quần thể đông đảo nhất trên địa cầu. ## Tổng quan Ký
thumb|upright|Một con mèo nông trại **Mèo nông trại**, còn được gọi là mèo chuồng, là mèo nhà, thường là giống mèo hỗn hợp, sống chủ yếu ngoài trời, trong điều kiện hoang dã hoặc bán
**Mèo Aegean** (tiếng Hy Lạp: _Greekα του Αιγαίου gáta tou Aigaíou_) là một giống mèo nhà có nguồn gốc từ quần đảo Cycladic của Hy Lạp. Nó được coi là một giống mèo tự nhiên,
**Mèo Korat** là một giống mèo lông ngắn màu xanh-xám, có đầu màu bạc, thân hình có độ lớn nằm ở khoảng nhỏ đến trung bình và tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể thấp.
**_Mèo đi hia: Điều ước cuối cùng_** (tiếng Anh: **_Puss in Boots: The Last Wish_**) là bộ phim hoạt hình hài phiêu lưu được sản xuất bởi DreamWorks Animation. Phim là ngoại truyện của loạt
**Cú mèo châu Âu** (danh pháp khoa học: **_Otus scops_**) là một loài cú mèo nhỏ thuộc họ Cú mèo. Loài này là một phần của nhóm lớn hơn các loài cú gọi là cú
nhỏ|phải|Lợn Lũng Pù với đặc điểm có một chỏm lông trắng trên đầu **Lợn đen Lũng Pù** là giống lợn bản địa ở Mèo Vạc, hiện được chăn nuôi tại 4 huyện trong tỉnh Hà