Xưởng đóng tàu Nelson là một bến du thuyền, một di sản văn hóa nằm tại làng English Harbour, Antigua. Nó là một phần của Vườn quốc gia Xưởng đóng tàu Nelson bao gồm cả Nhà Clarence và Shirley Heights. Tên của nó được đặt theo Đô đốc hải quân Horatio Nelson, người từng có khoảng thời gian ở tại xưởng đóng tàu từ năm 1784 đến 1787. Xưởng đóng tàu Nelson là nơi neo đậu của một số thuyền buồm và du thuyền ở Antigua, đồng thời cũng là nơi diễn ra một số sự kiện như cuộc đua du thuyền Antigua Sailing Week.
Lịch sử
English Harbour nhanh chóng trở thành một tâm điểm cho việc thành một căn cứ hải quân ở Antigua. Nằm ở phía nam của đảo, nó có vị trí thuận lợi để giám sát được các đảo lân cận Guadeloupe của Pháp. Ngoài ra, bến cảng tự nhiên ở đây là nơi rất phù hợp để bảo vệ các tàu và hàng hóa trước các cơn bão. Năm 1671, con tàu đầu tiên được ghi nhận tới English Harbour là du thuyền "Dover Castle". Nó được sử dụng bởi thống đốc Quần đảo Leeward như là để tuần hành tới các đảo thuộc thẩm quyền và xua đuổi hải tặc.
Vào năm 1704 khi Pháo đài Berkeley được thiết lập tại English Harbour như là một trong 20 pháo đài bảo vệ bờ biển Antigua. Đến năm 1707, các tàu hải quân sử dụng nơi đây như là một trạm lưu trú, nhưng tại đây chưa có cơ sở vật chất để đóng, bảo dưỡng hoặc sửa chữa tàu thuyền. Năm 1723, English Harbour được sử dụng thường xuyên bởi Hải quân Hoàng gia Anh, và trong khoảng thời gian cuối năm đó, nơi đây đã đạt được danh tiếng như là một bến cảng tự nhiên an toàn khi 35 con tàu neo đậu ở các nơi khác ở Antigua bị cuốn lên bờ, trong khi HMS Hector và HMS Winchelsea neo đậu tại English Harbour không hề bị hư hại nào. Ngay sau đó, một sĩ quan Hải quân Anh đã kiến nghị về việc xây dựng một xưởng sửa chữa, bảo dưỡng tàu ở English Harbour. Năm 1728, xưởng tàu đầu tiên với tên gọi St. Helena được xây dựng ở phía đông bến cảng bao gồm một nhà tời cho việc hạ thủy tàu thuyền, một nhà kho đá và ba nhà kho bằng gỗ sử dụng để lưu trữ các dụng cụ phục vụ công việc hạ thủy. Không có nhân viên sửa chữa ngoài nào ở xưởng đóng tàu, tất cả các công việc trên tàu và sửa chữa đều được các thủy thủ của tàu đảm nhiệm. Các hoạt động hải quân ở English Harbour sớm phát triển, vượt ra khỏi quy mô của một xưởng đóng tàu nhỏ ban đầu và kế hoạch đã được thực hiện để phát triển khu vực phía tây bến cảng với nhiều tiện ích mới.
Viêc xây dựng Xưởng đóng tàu Hải quân hiện đại bắt đầu được thực hiện vào những năm 1740. Người lao động là những nô lệ đã được đưa đến từ các đồn điền lân cận tới đây để làm việc tại xưởng. Năm 1745, một đường dẫn từ các nhà kho bằng gỗ tới khách sạn, cửa hàng Copper & Lumber, cùng với đó là việc cải tạo đất đai để mở rộng bến tàu được tiến hành. Việc xây dựng tiếp tục diễn ra từ 1755 đến 1765 khi Commander-in-Chief được xây dựng như là nơi đóng quân chính tại đây. Ngoài ra, một nhà kho khác, nhà bếp và một nơi ở cho các sĩ quan đi săn bắn cũng đã được dựng lên. Phần đầu của Xưởng cưa được xây dựng, bến tàu được cải tạo và một bức tường đá nhằm bảo vệ xưởng đóng tàu được tiến hành xây dựng. Giữa những năm 1773 đến 1778, quá trình hoàn thiện tiếp tục được thực hiện. Ranh giới của bức tường được kéo dài cho đến như ngày nay. Nhà canh gác, Nhà bảo vệ cổng, hai nhà cột tàu, nhà ụ tời cáp và những gian chứa vải bạt,chão, cửa hàng quần áo cũng đã được xây dựng. Bệnh viện Hải quân đầu tiên trên đảo được xây dựng ngoài xưởng đóng tàu. Nhiều tòa nhà ngày nay ở xưởng đóng tàu được xây dựng trong một chương trình được thực hiện từ năm 1785 đến 1794. Văn phòng Kỹ sư, cửa hàng nhựa đường được xây dựng vào năm 1788 và bức tường được mở rộng để xây dựng các tòa nhà mới. Năm 1789, cửa hàng Copper & Lumber được hoàn thành, và sau đó là gian chứa vải bạt, chão, quần áo cũng đã hoàn thành vào năm 1792. Tiệm rèn cũng đã xuất hiện ngay từ thời kỳ này. Quá trình xây dựng này trùng với khoảng thời gian Đô đốc Nelson cai quản xưởng đóng tàu từ năm 1784 đến 1787. Năm 1855, Trụ sở chính Hải quân và Nhà thông sự được xây dựng, ngày nay trở thành Bảo tàng Xưởng đóng tàu.
Năm 1889, Hải quân Hoàng gia Anh bỏ xưởng đóng tàu này và nó rơi vào tình trạng đổ nát. Hội những người bạn của English Harbour bắt đầu phục hồi xưởng vào năm 1951 và một thập kỷ sau đó nó đã được mở cửa cho công chúng tham quan. Trong số các tòa nhà ban đầu là hai khách sạn, một bảo tàng, cửa hàng thủ công và thực phẩm, nhà hàng, bến du thuyền lớn. Những con đường mòn đi bộ đường dài mở ra trong và xung quanh vườn quốc gia.
Hình ảnh
Hình ảnh từ Xưởng đóng tàu Nelson, Antigua.
Image:Nelson4.JPG|Bù nhìn tại xưởng đóng tàu Nelson, Antigua
Image:NelsonAntigua.JPG|Bù nhìn tại xưởng đóng tàu Nelson, Antigua
Image:Anchor Nelson.JPG|Neo tàu tại Xưởng đóng tàu Nelson, cùng với nhà ở cho Sĩ quan, gian nhà để vải bạt, chão và cửa hàng quần áo.
Image:Nelsondockyard.JPG|Phần còn lại của Nhà ụ tời cáp với 3 ụ tời được sử dụng để hạ thủy, phía xa là nhà bếp.
Image:Dockyard Museum.jpg|Nhà Sĩ quan Hải quân cũ (ngày nay là Bảo tàng Xưởng đóng tàu)
Image:Boat House Pillars (5916097824).jpg|Những cột trụ còn xót lại của Nhà thuyền và kho để buồm sau ảnh hưởng của một cơn bão năm 1871 khiến nó bị tốc mái
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Xưởng đóng tàu Nelson** là một bến du thuyền, một di sản văn hóa nằm tại làng English Harbour, Antigua. Nó là một phần của Vườn quốc gia Xưởng đóng tàu Nelson bao gồm cả
**_Essex_** là một lớp tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, vốn đưa ra số lượng tàu chiến hạng nặng với số lượng nhiều nhất trong thế kỷ 20, với tổng cộng 24 tàu
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Invincible**_ bao gồm ba chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc và được đưa ra hoạt động vào năm 1908 như những tàu chiến-tuần dương đầu tiên
**_Ōyodo_** (tiếng Nhật: 大淀), là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc duy nhất trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo sông Ōyodo tại
**Tàu con thoi _Columbia**_ (số hiệu của NASA: **OV-102**) là tàu đầu tiên trong phi đội tàu con thoi của NASA có khả năng bay lên vũ trụ. Chuyến bay đầu tiên của nó, STS-1,
**USS _Nelson_ (DD-623)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua
**HMS _Nelson_ (28)** là một trong số hai chiếc thiết giáp hạm thuộc lớp _Nelson_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc giữa hai cuộc thế chiến. Tên của nó được đặt
thumb|, thiết giáp hạm dreadnought cũ nhất còn lại cho đến hôm nay, được hạ thủy vào năm 1912 và hiện là một tàu bảo tàng **Dreadnought** (tiếng Anh có khi còn được viết là
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**_Vittorio Veneto_** là một thiết giáp hạm lớp _Littorio_ của Hải quân Hoàng gia Ý (Regia Marina) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt tên theo Trận Vittorio Veneto, một trận
**HMS _Ark Royal_ (91)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh đã từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là loại tàu sân bay kiểu cũ có
**SMS _Goeben**_ là chiếc thứ hai thuộc lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức. Nó được hạ thủy vào năm 1911 và được đặt tên theo August Karl von Goeben, vị
**HMS _Stag**_ là một tàu frigate hạng năm 36 khẩu pháo thuộc lớp _Apollo_ phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh vào giai đoạn đầu thế kỷ 19. Nó là chiếc tàu chiến thứ
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Indefatigable**_ là lớp tàu chiến-tuần dương thứ hai của Anh Quốc, đã phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh và Hải quân Hoàng gia Australia trong Chiến tranh Thế giới
**_Littorio_** là thiết giáp hạm dẫn đầu lớp thiết giáp hạm _Littorio_ của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo tên gọi của
**HMS _Ameer_ (D01)**, nguyên là tàu sân bay hộ tống **USS _Baffins_ (CVE-35)** (ký hiệu lườn ban đầu **AVG-35** và sau đó là **ACV-35**) của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _Bogue_, được chuyển cho
**_Kasuga Maru_** (春日丸) là một tàu chiến gỗ chạy bằng động cơ hơi nước của Nhật Bản thời Bakumatsu và đầu thời kỳ Minh Trị, phục vụ hải quân Phiên Satsuma, và sau đó là
**_Mikasa_** (tiếng Nhật: 三笠; Hán-Việt: Tam Lạp) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo tại Anh Quốc vào đầu thế kỷ 20. Nó đã
Dưới đây là danh sách các Di sản thế giới do UNESCO công nhận tại châu Mỹ. ## Antigua và Barbuda (1) trái|nhỏ|[[Xưởng đóng tàu Nelson|Xưởng tàu Hải quân Antigua.]] * Xưởng tàu Hải quân
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**_U-56_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ
**HMS _Rodney**_ (số hiệu: 29) là một trong hai thiết giáp hạm lớp _Nelson_ được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo vào giữa những năm 1920. Tên của nó được đặt nhằm tôn vinh
**Lớp _King George V**_ (lấy tên theo vua George đệ ngũ của Anh_)_ là lớp thiết giáp hạm áp chót được hoàn tất bởi Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Năm chiếc thuộc lớp này
**HMS _Warspite_ (03)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Queen Elizabeth_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó từng có mặt trong trận Jutland trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, rồi hoạt động
**Lớp thiết giáp hạm _Richelieu**_ là những thiết giáp hạm lớn nhất cũng là cuối cùng của Hải quân Pháp. Có nguồn gốc từ lớp thiết giáp hạm _Dunkerque_, lớp tàu này dự định trang
**Lớp thiết giáp hạm _Satsuma**_ (薩摩型戦艦 - Satsuma-gata senkan) là một lớp bao gồm hai chiếc thiết giáp hạm thế hệ bán-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Lớp _Satsuma_ là những chiếc thiết
**Lớp tàu frigate Captain** bao gồm 78 tàu frigate của Hải quân Hoàng gia Anh được chế tạo tại Hoa Kỳ và hạ thủy vào các năm 1942–1943. Chúng được chuyển giao cho Anh Quốc
**HMS _Hood_ (51)** là chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng và cũng đồng thời là chiếc tàu chiến-tuần dương duy nhất thuộc lớp Admiral của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo hoàn
**Buck Nelson** (9 tháng 4 năm 1895 – 1982) là một nông dân người Mỹ tự nhận mình đã bắt gặp một vật thể bay không xác định (UFO) và giao tiếp với phi hành
Portsmouth (England), thành phố và là đơn vị quản lý, miền Nam nước Anh, nằm trên Đảo Portsea và bên Solent, một con kênh chia hòn đảo Wight và bờ biển phía Nam của nước
**Trận sông Nin** (còn được gọi là **Trận vịnh Aboukir**, trong tiếng Pháp là _Bataille d'Aboukir_ hoặc trong tiếng Ả Rập Ai Cập là معركة أبي قير البحرية) là một trận hải chiến lớn đã
**Chiến dịch Pedestal** (, **Trận chiến giữa tháng Tám**), được người dân Malta gọi là **** (, **Đoàn vận tải Santa Maria**), là một chiến dịch tiếp vận đảo Malta của Hải quân Hoàng gia
**F-35 Lightning II** (Tia chớp) (viết tắt: F-35) là tên gọi chung cho 3 biến thể máy bay khác nhau dựa trên thiết kế cơ sở X-35 của dự án phát triển máy bay tiêm
**HMS _Euryalus_ (42)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham
**Hải quân Pháp** (tiếng Pháp: _Marine nationale_), tên gọi không chính thức là **La Royale**, là lực lượng hải quân của Lực lượng Vũ trang Pháp. Được thành lập từ năm 1624, Hải quân Pháp
**_Gia đình siêu nhân_** (tựa gốc: **_The Incredibles_**) là một bộ phim điện ảnh hoạt hình đề tài siêu anh hùng của Mỹ ra mắt năm 2004 do Pixar Animation Studios sản xuất và phát
**Port Elizabeth**, **Gqeberha** hay **The Bay** (; ) là một trong các thành phố lớn ở Nam Phi; thành phố nằm ở tỉnh Đông Cape. Biệt danh là "Thành phố gió", Port Elizabeth trải dài
upright|Một kỵ sĩ trên lưng ngựa nhỏ|phải|Một con ngựa kéo hạng nặng, có thể dùng để tải pháo **Ngựa** là động vật được sử dụng nhiều nhất trong cuộc chiến, nhất là chiến tranh thời
**Tasmania** () là một bang hải đảo của Thịnh vượng chung Úc, nằm cách về phía nam của Úc đại lục, tách biệt qua eo biển Bass. Bang gồm có đảo Tasmania rộng lớn thứ
**Mafia II** là một trò chơi bắn súng góc nhìn thứ ba kết hợp với yếu tố phiêu lưu và là phần tiếp theo của Mafia: The City of Lost Heaven. Nó được phát triển
**USS _Edgar G. Chase_ (DE-16)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**Cá voi vây** (_Balaenoptera physalus_), còn gọi là **cá voi lưng xám**, là một loài động vật có vú sống ở biển thuộc phân bộ cá voi tấm sừng hàm. Chúng là loài cá voi
**HMS _Electra_ (H27)** là một tàu khu trục lớp E được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó đã chứng kiến
**Maria Karolina của Áo** (; tên đầy đủ: _Maria Karolina Luise Josepha Johanna Antonia_; 13 tháng 8 năm 1752 – 8 tháng 9 năm 1814) là Vương hậu của Napoli và Sicilia với tư cách
**HMS _Indomitable_ (92)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh thuộc lớp _Illustrious_ cải tiến. Nó từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai tại các chiến trường Ấn
**Diana Nyad** (sinh ngày 22 tháng 8 năm 1949), là tác giả, nhà báo, diễn giả, và vận động viên bơi đường trường phá kỷ lục thế giới. Năm 2013, ở tuổi 64, bà là
**USS _Witter_ (DE-636)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Buckley_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Thiếu úy Hải quân
**Whitney Elizabeth Houston** (9 tháng 8 năm 1963 – 11 tháng 2 năm 2012) là một nữ ca sĩ, diễn viên, nhà sản xuất phim và nhà từ thiện người Mỹ. Được biết đến là "Định
Khu vực đô thị **Newcastle** (/ ˈnjuːkɑːsəl /) là khu vực đông dân thứ hai ở bang New South Wales của Úc và bao gồm hầu hết các khu vực chính quyền địa phương của