✨Xuân Trường
Xuân Trường là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Nam Định, Việt Nam.
Vị trí địa lý
Huyện Xuân Trường nằm ở phía bắc của tỉnh Nam Định, nằm cách thành phố Nam Định khoảng 35 km về phía bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 125 km, có vị trí địa lý:
- Phía đông giáp huyện Giao Thủy *Phía tây giáp huyện Trực Ninh
- Phía nam giáp huyện Hải Hậu
- Phía bắc giáp huyện Vũ Thư (Thái Bình)
- Phía đông bắc giáp huyện Kiến Xương (Thái Bình).
Ranh giới phía Bắc với tỉnh Thái Bình là sông Hồng. Ranh giới phía Tây với huyện Trực Ninh là sông Ninh Cơ, ranh giới phía Đông Nam với huyện Giao Thủy là sông Sò.
Dân số năm 2010 là 190.000 người. 30% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Hành chính
Huyện Xuân Trường có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Xuân Trường (huyện lỵ) và 13 xã: Thọ Nghiệp, Trà Lũ, Xuân Châu, Xuân Giang, Xuân Hồng, Xuân Ngọc, Xuân Ninh, Xuân Phú, Xuân Phúc, Xuân Tân, Xuân Thành, Xuân Thượng, Xuân Vinh.
Lịch sử
Xuân Trường 春長 là tên gọi có lịch sử lâu đời sau nhiều lần chia tách, sáp nhập đến nay là tên một huyện tỉnh Nam Định.
Trước năm 1945
Vùng đất có huyện Xuân Trường vào thời Lý (1010 - 1225) được gọi là “Hải Thanh 海清“.
Đến đời Vua Trần Thái Tông (1225 - 1258) đổi là “Thiên Thanh 天清”.
Đời Vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278) gọi là “Thiên Trường 天長” (chữ “Thiên 天” với ý nghĩa chủ yếu là “Trời chữ “Trường 長” với ý nghĩa chủ yếu là: dài, lớn). Lúc đầu, lộ Thiên Trường bao gồm cả tỉnh Nam Định và một phần lớn tỉnh Thái Bình ngày nay. Dần dần, Thiên Trường chỉ còn là một phủ.
Thời thuộc Minh gọi là Phụng Hóa, sang triều Lê lấy lại tên Thiên Trường.
Thời Nguyễn, triều vua Tự Đức, phủ Thiên Trường bao gồm phần đất nay là các huyện Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thủy, Hải Hậu của tỉnh Nam Định. Các huyện Vũ Tiên, Kiến Xương, Tiền Hải của tỉnh Thái Bình chuyển về Phủ Kiến Xương.
Năm 1862, vua Tự Đức cho đổi tên “phủ Thiên Trường 天長府” thành “phủ Xuân Trường 春長府”. Lúc này, phủ Xuân Trường bao gồm 3 huyện: Nam Trực, Trực Ninh, Giao Thủy.
Huyện Giao Thủy bao gồm cả huyện Xuân Trường ngày nay. Lỵ sở phủ Xuân Trường và huyện Giao Thủy đều nằm ở Tương Nam (Nhương Nam), khu vực trường THPT Lý Tự Trọng – Nam Thanh – Nam Trực – Nam Định. thế=Bản đồ Phủ Xuân Trường 1891|giữa|nhỏ|607x607px|Bản đồ Phủ Xuân Trường 1891
**_Chú ý cần phân biệt tên gọi Giao Thủy:_**Năm 1888, lập huyện Hải Hậu gồm một số xã (tổng) cắt từ huyện Trực Ninh và một số xã (tổng) của huyện Giao Thủy. Khi đó, phủ Xuân Trường quản hạt 4 huyện: Nam Trực, Trực Ninh, Giao Thủy, Hải Hậu.Một vạn/làng/hương Giao Thủy cổ xưa có từ thời Lý, địa danh này gắn với lịch sử chùa Keo - Thần Quang tự và chùa Diên Phúc - Viên Quang tự (Nghĩa Xá), vị trí tương đối của hương Giao Thủy thời Lý bao gồm phần phía Đông Nam của huyện Nam Trực, từ phía Bắc xã Tân Thịnh, qua Thị trấn Cổ Lễ, sang tả ngạn sông Hồng thuộc huyện Vũ Thư - Thái Bình.
Hương Giao Thủy sau khi lấn biển, mở rộng diện tích đổi thành huyện Giao Thủy cổ xưa (trước 1945) rất rộng gồm cả huyện Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thủy, Hải Hậu hiện nay.
_Huyện Giao Thủy hiện tại nhỏ hẹp hơn (được tách ra từ huyện Xuân Thủy, phân định địa giới với huyện Xuân Trường sau năm 1945) là một phần nhỏ và đất mới bồi của huyện Giao Thủy cổ xưa._
Năm 1889, triều Vua Thành Thái bỏ cấp phủ, lấy tên “phủ” để gọi cho huyện lớn nhất trong phủ. “phủ Xuân Trường” được gọi thay cho “huyện Giao Thủy” (mặc dù trong các văn bản hành chính, sắc phong sau đó vẫn dùng chữ “Huyện Giao Thủy”). Dời lỵ sở về làng Ngọc Cục, nay là toàn bộ khuôn viên trường THPT Xuân Trường. Phủ Xuân Trường lúc này chỉ còn phần đất hai huyện Xuân Trường và Giao Thủy hiện tại. Theo đó: Sáp nhập 3 xã: Xuân Bắc, Xuân Phương và Xuân Trung thành xã Trà Lũ Sáp nhập 3 xã: Xuân Đài, Xuân Phong và Xuân Thủy thành xã Xuân Giang *Sáp nhập 3 xã: Xuân Hòa, Xuân Kiên và Xuân Tiến thành xã Xuân Phúc.
Từ đây huyện Xuân Trường có 13 xã và 1 thị trấn như hiện nay.
Danh nhân
thumb|284x284px|Khu nhà lưu niệm Trường Chinh ở thị trấn Xuân Trường
Dương Không Lộ - Thiền sư, quốc sư thời Lý, chữa bệnh sợ tiếng Mộc Tinh cho vua Lý Nhân Tông, tổ nghề đúc đồng Việt Nam, thờ chính ở chùa Keo - Thần Quang (Hành Thiện, xã Xuân Hồng). Nguyễn Giác Hải - Thiền sư, quốc sư thời Lý bạn đồng tu kết nghĩa với Dương Không Lộ, cùng chữa bệnh sợ tiếng Mộc Tinh cho vua Lý Nhân Tông, thờ chính ở chùa Viên Quang (Nghĩa Xá, xã Xuân Ninh). Đào Minh Dương - Đỗ tiến sĩ, mở đầu đỗ đại khoa huyện Xuân Trường đời vua Mạc Phúc Nguyên, 1550. Lúc này làng còn ở Giao Thủy - Hộ Xá (Nghĩa Xá, Xuân Ninh). Phan Bá Vành - Thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân kéo dài nhất triều Nguyễn 1821-1827, căn cứ chính ở Trà Lũ (xã Trà Lũ). Phạm Thế Lịch - Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân 1828, khai khoa huyện Xuân Trường ngày nay, giữ các chức vụ Tả thị lang bộ Lễ, bộ Hình; Tham tri bộ Hộ, bộ Lại; Tuần phủ Bắc Ninh; hai lần Chánh sứ đi sang nhà Thanh (bố vợ Đặng Xuân Bảng, Lạc Quần, xã Xuân Ninh) Đặng Xuân Bảng - Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi Bính Thìn 1856, bổ làm Tuần phủ Hải Dương, Đốc học Nam Định (ông nội Trường Chinh, xã Xuân Hồng). Nguyễn Thế Truyền - Nhà cách mạng trong nhóm "Ngũ long" trước 1930 (xã Xuân Hồng). Nguyễn Thế Rục - Nhà cách mạng tham gia viết "Luận cương cách mạng Việt Nam" 1930 (xã Xuân Hồng). Trường Chinh - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (xã Xuân Hồng). Vũ Viết Hòa - Chủ nhiệm Kho KV2/Cục Quân khí/Tổng cục Kỹ thuật. Anh hùng lao động 1962 (xã Xuân Hồng). Đỗ Trực - Thượng úy, Phân đội trưởng Phân đội 2 thuộc đội ca nô Hồng Hà, Cục Vận tải, Tổng cục Hậu cần. Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân 1967 (xã Xuân Thượng) Phạm Gia Triệu - Thiếu tướng, thầy thuốc nhân dân, bác sĩ quân y, Viện phó Viện quân y 108; chuyên gia về thần kinh hàng đầu Việt Nam, người xây dựng ngành phẫu thuật thần kinh trong quân đội. Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI. Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân 1967 (xã Xuân Hồng) Đinh Thị Vân - Đại tá tình báo Quân đội nhân dân Việt Nam, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân đầu tiên ngành tình báo quốc phòng 1970 (xã Xuân Thành). Đặng Ngọc Ngự - Liệt sỹ, phi công đã bắn rơi 7 máy bay Mỹ. Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân 1973 (xã Xuân Giang). Hoàng Thọ Mạc - Liệt sỹ, chiến sỹ tăng thiết giáp bắn cháy 8 xe tăng địch và hy sinh tại cầu Vĩnh Bình, cửa ngõ Sài Gòn 30/4/1975, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân 1975 (Thị trấn Xuân Trường) Đỗ Nguyên Sáu - Chiến sĩ công an xung phong, hy sinh tại nhà xứ Trùng Phương (Hải Hậu) năm 1951 khi tiêu diệt trùm phản động Vũ Đức Khâm. Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân 1996 (xã Xuân Thượng) Vũ Khiêu - Viện trưởng viện Xã hội học, Anh hùng lao động 2000 (xã Xuân Hồng) Vũ Mạnh Hùng - Liệt sỹ, Trung đoàn trưởng 98 Sư đoàn 316. Năm 1950, chỉ huy Tiểu đoàn 215 tiêu diệt phỉ ở Thập Vạn Đại Sơn - Trung Quốc. Năm 2000, Nhà nước truy tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (xã Xuân Vinh) Phạm Văn Lãng - Liệt sỹ, chiến sĩ đặc công Tiểu đoàn Đặc công 89 Đà Nẵng, mở đầu đánh sân bay Đà Nẵng phá hủy sân bay và hàng chục máy bay năm 1965, tiêu diệt 61 lính Mỹ bằng bộc phá năm 1966. Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân 2010 (xã Xuân Ninh) Đinh Quốc Phòng - Chiến sĩ Công binh, dũng sỹ diệt Mỹ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân 2010 (xã Xuân Phúc) Nguyễn Đăng Kính - Thiếu tướng, Viện trưởng Viện Kiểm sát Quân sự Trung ương kiêm Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam, trong 2 năm chiến đấu (1967-1968), ông đã 6 lần bắn rơi máy bay Mỹ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân 2010 (xã Xuân Hồng) Nguyễn Văn Minh - Phi công bắn rơi 3 máy bay F-4 trong kháng chiến chống Mỹ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân 2018 (xã Xuân Giang) Trần Ngọc Lương - Bác sĩ, thầy thuốc nhân dân, giám đốc bệnh viện Nội tiết trung ương, sáng tạo của kỹ thuật mổ nội soi tuyến giáp "Dr. Luong", Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới năm 2020 (xã Xuân Thành - Xuân Giang). Đặng Quân Thụy - Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Nguyên Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa IX, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh, được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2023 (xã Xuân Hồng).
Văn nghệ sĩ
- Đặng Xuân Thiều (1909-1965) - Nhà thơ, nguyên giám đốc bảo tàng cách mạng Việt Nam (Hành Thiện, Xuân Hồng)
- Nguyễn Ngọc Tỉnh (1894-1973) - Nhà thơ, cán bộ phiên dịch Viện sử học (Hạc Châu, Xuân Châu)
- Đinh Ngọc Liên (1912-1991) - Nhạc sĩ, Đại tá, nguyên trưởng đoàn Quân nhạc Việt Nam (Phú Nhai, Trà Lũ).
- Nguyễn Văn Niêm - Biên kịch, nguyên trưởng ban sáng tác Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam (Hành Thiện, Xuân Hồng)
- Nguyễn Quý Lãm - Nhạc sĩ, Tổng thư ký Việt Nam nhạc hội tại miền Nam Việt Nam, Giáo sư trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn (Hành Thiện, Xuân Hồng)
- Hồng Diệu - Nhà lý luận phê bình văn học, nguyên Trưởng ban lý luận phê bình tạp chí Văn nghệ quân đội (Xuân Bắc)
- Trịnh Kim Vinh - Họa sĩ, nguyên Phó hiệu trưởng trường ĐH Mỹ thuật tp Hồ Chí Minh
- Nguyễn Văn Từ - Nhà thơ, nguyên Giám đốc viện bảo tàng quân đội (Thọ Vực, Xuân Phong)
- Trần Thị Hằng (Nguyệt Hằng) - Nhà văn, nhà báo nguyên Trưởng phòng chuyên đề văn nghệ, thời sự chính trị Đài phát thanh truyền hình Hải Phòng (Xuân Trung, Trà Lũ)
- Nguyễn Thị Kim Liên - Nghệ sĩ nhân dân nghệ thuật chèo, 4 lần gặp Bác Hồ (Xuân Trung, Trà Lũ)
- Nguyễn Thế Tuyền - Nghệ sĩ ưu tú nghệ thuật chèo (Xuân Tân)
Di tích lịch sử văn hóa và di tích nghệ thuật kiến trúc
- Chùa Keo Hành Thiện - Di tích quốc gia đặc biệt.
- Chùa Đĩnh Lan (tức chùa Ngoài Hành Thiện).
- Nhà thờ Phú Nhai (Vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô Nhiễm).
- Nhà thờ chính tòa Bùi Chu.
- Nhà thờ Kiên Lao. (Xuân Tiến).
- Chùa Tự Lạc - Thọ Nghiệp: Nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của 3 huyện Xuân Trường, Hải Hậu và Giao Thủy.
- Nhà lưu niệm Tổng bí thư Trường Chinh.
- Chùa Hạc Châu - Xuân Châu (Di tích lịch sử quốc gia).
- Chùa Thọ Vực - Xuân Phong (Di tích lịch sử quốc gia).
- Chùa Liêu Đông - Xuân Tân (Di tích lịch sử quốc gia).
- Chùa Ngọc Tiên (Quê hương Tổ Giác Đạo Ngạn).
- Đền Thờ THànhàng Văn Quảng (Thành Hoàng Làng Ngọc Tiên - Tướng Quân đánh trận Đèo Ngang (Đâu Mâu)).
- Đền Trần Ngọc Tiên (thờ Đức Quốc Mẫu và Đức Thánh Trần Hưng Đạo)
- Nhà thờ Ngọc Tiên (xây dựng bằng gỗ lim năm 1903).
- Kim Sa Tự (Xuân Đài).
- Đền làng Trà Lũ Đông (Xuân Phương - Trà Lũ).
Làng nghề
Xuân Trường là huyện đa dạng các nhóm nghề. Một số nghề duy trì tốt và ổn định như mộc, chế biến lâm sản, cơ khí, vận tải, chế biến thực phẩm và nông sản. Một số xã có nghề với thu nhập khá như Xuân Tiến, Xuân Trung, Xuân Ngọc, Xuân Phương, Xuân Ninh, Xuân Bắc. Các làng nghề truyền thống, làng nghề, nghề truyền thống, làng có nghề và nghề phụ tại các địa phương trong huyện:
- Làng mộc, chế biến gỗ Trà Đông (Trà Lũ).
- Nghề mộc, chế biến gỗ Trà Đoài (Trà Lũ).
- Làng thêu tranh Phú Nhai (Trà Lũ).
- Làng nghề đậu phụ Thủy Nhai (Xuân Giang).
- Làng nghề rượu Kiên Lao (Xuân Phúc).
- Làng nghề sơ chế gỗ xóm 10 (Xuân Phúc).
- Làng nghề cơ khí đúc chuông xóm 8, 9 (Xuân Phúc).
- Nghề chế biến thực phẩm xóm 6, 7 (Xuân Phúc).
- Làng bán rau thơm Hành Thiện (Xuân Hồng).
- Làng dệt lụa, dâu tằm Hồng Thiện (Xuân Hồng).
- Nghề cơ khí, mộc Bắc Câu (thị trấn Xuân Trường).
- Làng nghề vật liệu xây dựng (thị trấn Xuân Trường).
- Làng nghề dệt chiếu và cây cảnh Xuân Dục (Xuân Ninh). *Nghề dệt cói, truyền thống vận tải thủy (Xuân Trung).
- Làng cốm, làng cót, làng mộc (Trà Lũ).
Đặc sản địa phương
- Gạo tám thơm (xã Xuân Đài).
- Rượu Kiên Lao (xã Xuân Phúc).
- Thịt chuột Vạn Lộc (xã Xuân Phong).
- Nem Bà Thành (xã Xuân Phúc).
- Bánh hú (xã Trà Lũ).
- Sâu dâu (xã Trà Lũ).