✨Xuân Diệu

Xuân Diệu

Xuân Diệu tên thật đầy đủ là Ngô Xuân Diệu (2 tháng 2 năm 1916 — 18 tháng 12 năm 1985), là nhà thơ, nhà báo, nhà văn viết truyện ngắn, nhà phê bình văn học và chính khách người Việt Nam. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới đầu thế kỷ XX.

Được đánh giá là "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới", "Ông hoàng thơ tình" Xuân Diệu nổi tiếng với tập Thơ thơ (1938), thể hiện một tiếng nói riêng biệt chịu ảnh hưởng văn hoá phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa tượng trưng Pháp. Ông là một trong những người đầu tiên áp dụng thủ pháp thơ phương Tây như câu vắt vào thơ Việt Nam, dù đôi khi vẫn tuân theo hình thức truyền thống như lục bát. Trong khoảng thời gian từ năm 1936 đến năm 1944, thơ của ông đã thể hiện một triết lý bi quan, tuyệt vọng về tình ái nhưng lại có một mạch ngầm thúc giục, nhiều khi hừng hực sức sống. Nhờ đó, Xuân Diệu còn được mệnh danh là "ông hoàng thơ tình". Sau khi gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1945, thơ của ông chủ yếu ca ngợi Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh, và các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; ông không còn sáng tác thơ tình nhiều như trước. Khi qua đời năm 1985, ông để lại khoảng 450 bài thơ, cùng một số truyện ngắn, tiểu luận phê bình. Ông còn là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I từ Hải Dương.

Tiểu sử

Xuân Diệu quê ở làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh nhưng sinh tại quê mẹ Gò Bồi, thôn Tùng Giản, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Cha là ông Ngô Xuân Thọ (trong tộc phả ghi là Ngô Xuân Thụ) và mẹ là bà Nguyễn Thị Hiệp. Sau này ông lấy tên làng là Trảo Nha làm bút danh. Xuân Diệu sống ở Tuy Phước đến năm 11 tuổi thì ông vào Nam học ở Quy Nhơn.

Bắt đầu sáng tác

Năm 1936, Xuân Diệu ra Huế nhập học trường Khải Định, tại đây ông đã gặp Huy Cận và tốt nghiệp trường tú tài năm 1937. Sau đó, ông ra Hà Nội học trường Luật và viết báo, là thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn, một tổ chức văn học gồm phần lớn các cây bút trẻ Việt Nam được đào tạo dưới hệ thống giáo dục thuộc địa, thông thạo cả văn học Việt Nam lẫn phương Tây. Ông đến với nhóm khá muộn, xong đã tự tạo dựng danh tiếng cho mình thành chỗ dựa vững chắc trong giới trí thức Việt Nam, xuất bản những cuốn tiểu thuyết lãng mạn mục đích giải trí cùng với những tác phẩm châm biếm gây phẫn nộ cả xã hội đương thời lẫn chính quyền Pháp. Trong số đồng nghiệp của ông có Thế Lữ, chuyên làm thơ mang tính kỳ ảo và viết truyện ngắn trinh thám, chịu ảnh hưởng chủ nghĩa lãng mạn Pháp và nhà văn Edgar Allan Poe. Theo các nhà phê bình văn học Hoài Thanh và Hoài Chân, Xuân Diệu mượn cảm hứng từ cùng một chủ đề lãng mạn, nhưng ông "đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới". Họ cũng chỉ ra Xuân Diệu chịu ảnh hưởng từ Charles Baudelaire, so sánh khía cạnh thơ ông với Anna de Noailles và André Gide, đánh giá thơ ông là đỉnh cao trong những bài thơ Việt Nam chịu ảnh hưởng Pháp.

Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất

Từ năm 1938 đến 1940, Xuân Diệu sống với nhà thơ và người bạn thân mật Huy Cận tại số 40 Hàng Than, Hà Nội. Sau khi Nhật tấn công Đông Dương vào tháng 9 năm 1940, nhiều thành viên Tự Lực văn đoàn tập trung hoàn toàn vào chính trị, trong đó có người sáng lập nhóm Nhất Linh. Cuối năm 1940, ông vào Mỹ Tho (nay là Tiền Giang) làm viên chức (tham tá thương chánh). Một số thành viên còn lại, như Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí, bị Pháp bắt giam tại Nhà tù Sơn La, nhóm dần suy yếu. Khi Xuân Diệu trở lại Hà Nội năm 1942, hầu hết các nhà văn ông từng làm việc cùng đều đã ly tán hoặc tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ông sống bằng nghề viết văn trong hai năm cho đến khi tham gia phong trào Việt Minh. Trong kháng chiến, Xuân Diệu di tản lên chiến khu Việt Bắc, hoạt động văn nghệ cách mạng. Trong hồi ký Cát bụi chân ai của nhà văn Tô Hoài, chính trong thời gian này, Xuân Diệu đã vài lần có ý thân mật quá mức với đồng đội, gồm cả chính Tô Hoài, nên bị cấp chỉ huy khiển trách.

Giữa hai cuộc chiến

thumb|right|Một ngôi nhà trên phố Điện Biên Phủ, xưa gọi là đường Cột Cờ. Xuân Diệu sống tại 24 đường Cột Cờ, gia đình Huy Cận sống trên gác, còn ông ở dưới cho đến khi mất năm 1985.

Hòa bình lập lại năm 1954, Xuân Diệu về sống tại Hà Nội, viết báo và sáng tác thơ. Năm 1956, ông kết hôn với nữ đạo diễn Bạch Diệp 27 tuổi, nhưng mối tình không được viên mãn và cả hai sớm chia tay. Bạch Diệp sau đó tái hôn với một người đàn ông khác, còn Xuân Diệu sống một mình trong một căn hộ ngay bên dưới gia đình Huy Cận, người đã kết hôn với Ngô Xuân Như, em gái Xuân Diệu.

Từ 1955 đến tháng 6 năm 1958, Xuân Diệu bị lôi kéo vào Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm nổi tiếng lúc bấy giờ. Khi Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kết thúc, một số cải cách của chính quyền mới có những sai lầm khi thực hiện dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, những tiếng nói bất đồng chính kiến ​​bắt đầu dấy lên trong một số nhà văn, họ tuyên bố đòi quyền tự do chỉ trích những sai lầm của chính phủ. Dù chính phủ thừa nhận những sai sót, song phong trào sớm phát triển từ việc chỉ trích những sai lầm của chính phủ sang công kích cá nhân những nghệ sĩ khác và kêu gọi biểu tình chống Nhà nước, gây ra rạn nứt giữa các nhà văn ủng hộ chính phủ và những nhân vật bất đồng chính kiến ​​như Lê Đạt hay Trần Dần. Cuối cùng, Xuân Diệu, Huy Cận và những người khác, chọn đứng về phía chính phủ; trong một đáp trả gay gắt công bố vào tháng 5 năm 1958, ông cáo buộc những người như Lê Đạt, Hoàng Cầm và Trần Dần đã lợi dụng sáng tác văn nghệ để phục vụ mưu đồ chính trị, gọi họ là những kẻ "chủ nghĩa tư bản cá nhân", đang "cố gắng đầu độc bầu không khí văn xuôi và thơ ca của chúng ta, nghĩa là ta cần xoá sổ, thanh lọc chúng".

Những năm tháng cuối đời

Khi quan hệ giữa hai miền Nam, Bắc Việt Nam dần trở nên căng thẳng, dẫn đến Chiến tranh Việt Nam, Xuân Diệu tiếp tục viết văn đấu tranh chống lại quân Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Ông cũng dịch nhiều tác phẩm của các nhà văn nước ngoài, trong đó có Nâzım Hikmet, Nicolás Guillén và Alexander Pushkin. Các tác phẩm phân tích văn học đầu tiên của ông, xuất bản vào cuối những năm 1950 và trong suốt những năm 1960, đi sâu vào khám phá ý nghĩa văn hóa của các tác giả thơ Nôm Việt Nam như Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương – người được ông tôn vinh là "Bà chúa thơ Nôm", một danh hiệu mà cho đến nay vẫn được các thế hệ nhà văn khác nhắc tới.

Trong hai thập niên cuối đời, Xuân Diệu đặc biệt khuyến khích các nhà thơ trẻ. Ông đã viết cuốn sách Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ vào năm 1961, đưa ra lời khuyên với tư cách là một nhà thơ có kinh nghiệm và là một người đam mê mong muốn thấy thơ ca Việt Nam phát triển trong tương lai. Khi một cậu bé mười tuổi tên là Trần Đăng Khoa đến từ Hải Dương gây được tiếng vang với năng khiếu thơ ca của mình, chính Xuân Diệu đã đến gặp cậu bé và đề nghị đọc thử tập thơ đầu tiên của cậu. Trong những hồi tưởng sau này, Trần Đăng Khoa nhận xét về cách Xuân Diệu đã dẫn dắt ông khi ông trưởng thành và thay đổi phong cách viết của mình. Khi Trần Đăng Khoa đã lớn, ông đến thăm Xuân Diệu, lúc này đã lú lẫn tại căn hộ riêng ở Hà Nội và nhận thấy rằng Xuân Diệu đã có những bận tâm về cái chết và tuổi già, nhưng vẫn cống hiến hết mình cho việc viết thơ.

Qua đời

Ngày 18 tháng 12 năm 1985, Xuân Diệu qua đời tại nhà riêng vì nhồi máu cơ tim. Người bạn thân thiết nhất của ông là Huy Cận được cho là đã yêu cầu hoãn tang lễ cho đến khi ông trở về từ Dakar, Senegal; Lễ tang được tiến hành ngay sau đó và có rất nhiều văn nghệ sĩ Việt Nam tham dự, gồm có vợ cũ của Xuân Diệu là Bạch Diệp và nhà soạn nhạc Văn Cao, người bị ông công khai viết bài xúc phạm trong vụ Nhân Văn-Giai Phẩm. Xuân Diệu được an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch ở ngoại ô Hà Nội.

Phong cách sáng tác

Với khả năng viết sung mãn, Xuân Diệu đã để lại một khối lượng thơ, truyện ngắn, các ghi chép và tiểu luận đồ sộ. Hai tập thơ chính của ông là Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945). Tập truyện ngắn duy nhất được ông xuất bản là Phấn thông vàng (1939).

Thơ

Phong cách viết của Xuân Diệu, chịu ảnh hưởng Pháp trong các bài thơ ông, thể hiện rõ nhất trong tập Thơ thơ (1938). Nhan đề của tập thơ gợi nhiều liên tưởng; vì từ thơ thứ hai vừa có thể hiểu là nên thơ, thơ mộng, cũng có thể hiểu là trẻ thơ; do đó có thể hiểu nhan đề là "thơ trẻ" hoặc "thơ trữ tình". Cả hai cách diễn giải đều phù hợp với ý nghĩa chung của tập thơ, ca ngợi tuổi trẻ và vinh quang của cuộc sống thông qua sự kết hợp giữa hình ảnh tượng trưng và nhiều biện pháp tu từ. Một đoạn trích thường được trích dẫn nói đến những ý nghĩa này trong bài thơ "Yêu": :Yêu, là chết ở trong lòng một ít, :Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu? :Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu; :Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết.''

Câu thơ mở đầu Yêu là chết trong lòng một ít là sự vay mượn của câu thơ của Edmond Haraucourt: Partir, c'est mourir un peu (Đi là chết đi một ít). Đồng thời mạch cảm xúc của bốn câu thơ được thể hiện xuyên suốt các bài thơ khác trong tập thơ, cho thấy sự bi quan khi nói về tình yêu cùng nỗi sợ bị phụ tình. Trong bài thơ Vội vàng, đã được đưa vào chương trình giáo dục phổ thông của Việt Nam, Xuân Diệu mô tả nỗi ám ảnh về sự trôi qua của thời gian cùng nỗi sợ hiện sinh rằng tạo hoá Không cho dài thời trẻ của nhân gian. Một số nhà văn thường quy chụp những cảm xúc này có là do nhà thơ phải đối mặt với khuynh hướng tính dục của mình, nhưng dù thế nào đi nữa, nỗi sợ hãi và ám ảnh đều phù hợp với khao khát được sống thêm của nhân vật trữ tình và quyết định nổi loạn chống lại sự ngắn ngủi của cuộc sống. Trong lời nói đầu tập thơ Gửi hương cho gió (1945), Xuân Diệu viết: :Chim ngậm suối đậu trên cành bịn rịn, :Kêu tự nhiên, nào biết bởi sao ca. :Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái chín; :Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa.

:Hát vô ích, thế mà chim vỡ cổ, :Héo tim xanh cho quá độ tài tình. :Ca ánh sáng bao lần dây máu đỏ, :Rồi một ngày sa rụng giữa bình minh. thumb|right|Hai thi sĩ Pháp [[Paul Verlaine và Arthur Rimbaud, mối quan hệ thân thiết của họ được Xuân Diệu ngợi ca trong bài "Tình trai".]] Các nhà phê bình Hoài Thanh và Hoài Chân cho rằng sự sống động trong câu thơ của Xuân Diệu mang tính biểu tượng cho tuổi trẻ Việt Nam thời bấy giờ, họ là những người "được dịp ngó trời cao đất rộng" và do đó "mà cảm thấy cái thê lương của vũ trụ, cái bi đát của kiếp người". Sau khi giác ngộ, chàng trai trẻ đã chọn bám víu vào tình yêu và từ chối mọi thứ. Đó cũng là ý tưởng xuyên suốt bài thơ "Tình trai", một bài thơ ca ngợi mối quan hệ giữa Paul Verlaine và Arthur Rimbaud có xu hướng được coi là bằng chứng cho thấy Xuân Diệu là người đồng tính: :Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine, :Hai chàng thi sĩ choáng hơi men, :Say thơ xa lạ, mê tình bạn, :Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen.

:Những bước song song xéo dặm trường, :Đôi hồn tươi đậm ngát hoa hương, :Họ đi, tay yếu trong tay mạnh, :Nghe hát ân tình giữa gió sương.

:Kể chi chuyện trước với ngày sau; :Quên gió môi son với áo màu; :Thây kệ thiên đường và địa ngục! :Không hề mặc cả, họ yêu nhau. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, những tình cảm này ít còn được thấy trong các sáng tác của ông, khi đó đã chuyển sang ca ngợi cuộc kháng chiến của nhân dân và phong trào giành độc lập do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Giống như nhiều trí thức khác cùng thời, như Huy Cận, Thế Lữ và Nguyễn Huy Tưởng , ông đã "giác ngộ" cách mạng và có một lý tưởng sống mới. Các sáng tác của ông sau Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất cho thấy lối đi trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Văn xuôi

Bên cạnh sáng tác thơ, ông còn tham gia viết báo cho các tờ Ngày NayTiên Phong. Ông là một trong những người sáng lập Đoàn báo chí Việt Nam, nay là Hội Nhà báo Việt Nam.

Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh, đảng viên Đảng Dân chủ Việt Nam, sau tham gia Đảng Cộng sản. Sau Cách mạng tháng Tám, ông hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí Tiên phong của Hội. Sau đó ông công tác trong Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ ở Việt Bắc.

Xuân Diệu tham gia ban chấp hành, nhiều năm là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam. Từ đó, Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu ca ngợi cách mạng, một "dòng thơ công dân". Bút pháp của ông chuyển biến phong phú về giọng vẻ: có giọng trầm hùng, tráng ca, có giọng chính luận, giọng thơ tự sự trữ tình. Tiêu biểu là: Ngọn quốc kỳ (1945), Dưới sao vàng (1949), Ngôi sao (1955), Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau - Cầm tay (1962), Một khối hồng (1964), Hai đợt sóng (1967), Tôi giàu đôi mắt (1970), Thanh ca (1982), Tuyển tập Xuân Diệu (1983). Là cây đại thụ của nền thi ca hiện đại Việt Nam, Xuân Diệu đã để lại khoảng 450 bài thơ (một số lớn nằm trong di cảo chưa công bố), một số truyện ngắn, và nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học.

Xuân Diệu từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Ông còn được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa Dân chủ Đức năm 1983.

Cuộc sống riêng tư

Dù phong cách sáng tác đầy táo bạo song ngoài đời Xuân Diệu khá kín tiếng, hầu hết những câu chuyện về đời tư của ông đều được người quen kể lại trước và sau khi ông mất. Xuân Diệu lập gia đình với NSND Bạch Diệp nhưng hai người đã ly dị và không có con chung. Sau khi ly dị, ông sống độc thân cho đến lúc mất vào năm 1985.

Xuân Diệu là người cùng quê Hà Tĩnh với Huy Cận (làng Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh) nên khi gặp nhau, hai ông đã trở thành đôi bạn thân. Vợ của Huy Cận, bà Ngô Thị Xuân Như là em gái của Xuân Diệu. Quan hệ thân thiết giữa 2 người được một số trang báo đưa tin, có những người còn nghi vấn rằng Xuân Diệu cùng với Huy Cận có quan hệ đồng tính. Vợ chồng Huy Cận và Xuân Diệu từng ở chung một nhà nhiều năm. Bài thơ "Tình trai" của Xuân Diệu và "Ngủ chung" của Huy Cận được cho là viết về đề tài đó. Theo hồi ký Cát bụi chân ai của Tô Hoài thì Xuân Diệu từng bị kiểm điểm về việc này.

Cũng có một số các bài thơ khác được viết tặng cho người khác, như bài thơ Em đi là để gửi tặng nhà thơ Hoàng Cát. Ông gọi Hoàng Cát bằng đại từ nhân xưng "em", vốn thường dùng cho nữ giới trong một mối quan hệ yêu đương. Bài thơ được ông sáng tác trước khi Hoàng Cát lên đường ra tiền tuyến năm 1965. Hoàng Cát trẻ hơn Xuân Diệu rất nhiều, và trong một cuộc phỏng vấn năm 2013, ông nói rằng ông biết tình cảm của Xuân Diệu dành cho mình nhưng không đáp lại, vì ông "không thể yêu giống kiểu trai gái yêu nhau, hay như một người đồng tính, bởi mình là người bình thường". thumb|left|[[Tô Hoài (1920–2014).]] Những bài thơ tình của ông dùng những cách diễn đạt và đại từ thường dùng chỉ các mối quan hệ nam nữ, nhưng một số người quen của ông nghi ngờ Xuân Diệu là người đồng tính. Theo nhà văn Tô Hoài, Tới nay, một số bài thơ về yêu đương của ông vẫn là một chủ đề có nhiều phân tích.

Tác phẩm được phổ nhạc

  • Yêu được Châu Kỳ phổ thành "Đừng nói xa nhau". Ngoài ra, Phạm Duy cũng phổ nhạc bài thơ này thành "Yêu là chết Trong Lòng".
  • Nguyệt cầm được Cung Tiến phổ nhạc.
  • Vì sao được Phạm Duy phổ thành "Mộ khúc".
  • BIỂN được Nguyễn Thừa Thiên phổ nhạc " BIỂN" (giữ được trọn vẹn bài thơ không thêm hay bớt từ nào)

Di sản

Trong cuốn Thi nhân Việt Nam (1932–1941), Hoài Thanh và Hoài Chân thuật lại sự ngạc nhiên và do dự ban đầu của các nhà văn Việt Nam đương thời khi Xuân Diệu bước chân vào thế giới của họ với những bài thơ chịu ảnh hưởng nặng nề của Pháp. Tuy nhiên, khi họ dần trở nên quen thuộc hơn với nhà thơ trẻ, họ thấy "cái dáng dấp yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ ta". Thật vậy, giọng văn mới của Xuân Diệu đã để lại một tác động đáng kể đến nền văn học Việt Nam hiện đại, và ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I năm 1996. Nhiều sáng tác của ông được phổ nhạc, còn những bài thơ như "Đây mùa thu tới" và "Vội vàng" thì được đưa vào chương trình giảng dạy văn học chính thức dành cho học sinh trung học phổ thông Việt Nam nhiều năm liền. thumb|Một góc Hồ Tây, Hà Nội.

Một nhà tưởng niệm dành riêng cho ông đã được xây dựng tại quê ông làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh (bên cạnh đường lên Ngã Ba Đồng Lộc. Nhiều tuyến đường, phố cũng được đặt theo tên ông, gồm có một đại lộ ở Quy Nhơn và một con phố chạy dọc Hồ Tây ở Hà Nội, chạy qua khu vực mà hầu hết các con phố đều mang tên của các nghệ sĩ Việt Nam nổi tiếng khác như Trịnh Công Sơn và Tô Ngọc Vân. Ngoài ra, tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình có con đường mang tên Xuân Diệu ở phường Nam Lý, còn tại Thành phố Hồ Chí Minh, có con đường mang tên ông ở quận Tân Bình. Xuân Diệu cũng là tên của 1 trường trung học phổ thông ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định và 1 trường trung học cơ sở tại huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

Thơ tình Xuân Diệu, đặc biệt là tập Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945), vẫn được nhiều người tìm đọc, Xuân Diệu được tôn xưng là "Ông hoàng thơ tình", một cách gọi tương tự danh hiệu Bà chúa thơ Nôm mà ông dành tặng nữ sĩ thế kỷ XVIII Hồ Xuân Hương. Trong tập Chân dung và đối thoại (1998), nhà thơ Trần Đăng Khoa, lúc đó đã bốn mươi tuổi, có ghi lại câu nói nổi tiếng của Xuân Diệu:

"Nhà văn tồn tại ở tác phẩm. Không có tác phẩm thì nhà văn ấy coi như đã chết."

Hoạt động Đại biểu Quốc hội

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Xuân Diệu** tên thật đầy đủ là **Ngô Xuân Diệu** (2 tháng 2 năm 1916 — 18 tháng 12 năm 1985), là nhà thơ, nhà báo, nhà văn viết truyện ngắn, nhà phê bình văn
**Đặng Xuân Diệu** là một nhà vận động cộng đồng, nhà hoạt động và thành viên nổi bật của giáo dân Công giáo Việt Nam. Anh ta bị bắt tại Việt Nam vào ngày 30
**Thẩm Xuân Diệu** (tiếng Trung giản thể: 沈春耀, bính âm Hán ngữ: _Shěn Chūn Yào_, sinh tháng 5 năm 1960, người Hán) là luật gia, chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
BA ĐỈNH CAO THƠ MỚI - TÀI LIỆU VĂN HỌC VIỆT NAM 1932-1945 TÁI BẢN 2019 Trong các nhà Thơ Mới thì Xuân Diệu mới nhất còn Nguyễn Bính quen nhất, trong khi Hàn Mặc
Ra đời vào năm 2010, Elite Fitness đã phát triển từ câu lạc bộ đầu tiên tại Xuân Diệu, Hà Nội, trở thành hệ thống CLB thể thao 5 sao tiêu chuẩn quốc tế hàng
**Phan Huỳnh Điểu** (sinh ngày 11 tháng 11 năm 1924 - mất ngày 29 tháng 6 năm 2015) là một trong những nhạc sĩ tiêu biểu nhất của dòng nhạc cách mạng Việt Nam trong
ĐẶC TRỊ BẠC TÓC - RỤNG TÓC – HÓI ĐẦU Dầu gội Bách Niên Xuân: Giúp làm sạch tóc, mềm mượt tóc và tái tạo trẻ hóa da đầu giúp giảm dần tóc bạc và
ĐẶC TRỊ BẠC TÓC - RỤNG TÓC – HÓI ĐẦU Thuốc gội Bách Niên Xuân: Giúp làm sạch tóc, mềm mượt tóc và tái tạo trẻ hóa da đầu giúp giảm dần tóc bạc và
ĐẶC TRỊ BẠC TÓC - RỤNG TÓC – HÓI ĐẦU Thuốc gội Bách Niên Xuân: Giúp làm sạch tóc, mềm mượt tóc và tái tạo trẻ hóa da đầu giúp giảm dần tóc bạc và
Thiết kế đơn giản, thuận tiện trong sử dụng. Có thể sử dụng đểmassagenhiều bộ phận khác tùy theo sở thích như: chân, lưng, cổ, gáy, bụng, tay, bàn tayDo đa số các huyệt vị
**Chiến dịch Phan Rang – Xuân Lộc** là chiến dịch giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa trước cửa ngõ Sài Gòn trong Cuộc tổng tấn công
**Trò Xuân Phả** là các trò diễn dân gian mô tả cảnh 5 quốc gia cổ (thuộc Trung Hoa, Hòa Lan, Tú Huần, Chăm Pa, Ai Lao) đem lễ vật cùng với những tiết mục
thumb|right|Bản đồ Xuân Thu thế kỷ thứ 5 trước công nguyên **Xuân Thu** (chữ Trung Quốc: 春秋时代; Hán Việt: _Xuân Thu thời đại_, bính âm: _Chūnqiū Shídài_) là một giai đoạn lịch sử từ 771
**Vịnh Xuân quyền** (詠春拳, Wing Chun, ving tsun, Wing Tsun, Wing Chun kuen, Wingchun-kuen) còn được biết đến dưới tên gọi **Vĩnh Xuân quyền** (永春拳) và những biến thể khác về tên như **Vịnh Xuân
**Thanh Xuân** là một quận nội thành cũ thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Nguồn gốc tên gọi Thế kỷ XII, tại huyện Thanh Oai có chùa Thanh Xuân (tức chùa Phùng Khoang
**Hồ Xuân Hương** (cuối thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XIX) (chữ Hán: 胡春香) là một thi sĩ người Việt Nam sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà
## Đặc điểm Bàn về hệ thống kỹ thuật của Vịnh Xuân quyền, trên sự quan sát bề nổi của nhiều người, đó là cảm nhận về một hệ thống khá đơn giản với vài
**Chiến dịch mùa Xuân năm 1975**, hay **Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam**, là những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của Quân Giải phóng
**Thọ Xuân** là một huyện nằm ở phía tây tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. ## Địa lý Huyện lỵ huyện Thọ Xuân (thị trấn Thọ Xuân) - cách thành phố Thanh Hóa (đi theo quốc
**Chiến dịch Xuân Lộc** hay **Trận Xuân Lộc**, tên đầy đủ là **_Chiến dịch tiến công tuyến phòng thủ Xuân Lộc - Long Khánh_**, là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch
**Trường Xuân** () là thủ phủ và là thành phố lớn nhất ở tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc. Nằm ở trung tâm bình nguyên Đông Bắc, Trường Xuân được quản lý như một thành phố
nhỏ|Di tích Nghè Xuân Phả ở Thọ Xuân **Nghè Xuân Phả** là công trình đình làng Xuân Phả, xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Nghè Xuân Phả hiện nay thờ 2 vị
**Mùa xuân Praha** (, ) là một giai đoạn phi Xô Viết (tự do hóa) nền chính trị tại Tiệp Khắc trong thời kỳ nước này chịu ảnh hưởng từ Liên bang Xô viết sau
"**Mùa xuân ơi**" là một bài hát được nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Thiện sáng tác vào năm 1995. Với mong muốn có được một nhạc phẩm xuân cũng thành công như "Ngày Tết quê em"
**Trường Xuân cung** (chữ Hán: 長春宮), là một cung điện thuộc Tây lục cung tại Tử Cấm Thành, Bắc Kinh. "Trường Xuân" có ý nghĩa là "Trường Cửu Thanh Xuân" (长久青春). ## Lịch sử Cung
**Hoàng Diệu** (chữ Hán: 黃耀; 1829 - 1882) là một quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882. ## Xuất
**_Gửi hương cho gió_** là tên một tập thơ được xuất bản năm 1945, là tập thơ thứ hai của Xuân Diệu. Cùng với _Thơ thơ_, cho đến nay vẫn là hai thi phẩm nổi
**Xuân Tâm** (1916–2012) tên thật là **Phan Hạp**. Ông là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. ## Tiểu sử **Xuân Tâm** sinh ngày 1 tháng 1 năm 1916 tại làng Bảo An, xã
**Sân vận động Hòa Xuân** là một sân vận động tọa lạc tại phường Hoà Xuân, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Sân hiện là sân nhà của Câu lạc bộ SHB Đà Nẵng. Với
**Xuân Trường** là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Nam Định, Việt Nam. ## Vị trí địa lý Huyện Xuân Trường nằm ở phía bắc của tỉnh Nam Định, nằm cách thành phố Nam
**Xuân Văn** (sinh năm 1988) là một nữ diễn viên người Việt Nam. Năm 2017, cô đoạt giải thưởng "Nữ diễn viên chính xuất sắc" tại Lễ trao giải Cánh diều với vai diễn Thiên
Vào ngày 7 tháng 5 năm 2024, Bộ Quốc phòng Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức một chương trình kỷ niệm
**Mùa xuân** (Tiếng Anh: _spring_) là một trong bốn mùa trong năm thường được công nhận ở những vùng ôn đới và cận cực, tiếp nối mùa đông và diễn ra trước mùa hạ, thường
**_"Bến xuân"_** là tên một ca khúc hợp soạn của nhạc sĩ Văn Cao và nhạc sĩ Phạm Duy vào năm 1942. ## Hoàn cảnh ra đời Ca khúc này được sáng tác vào năm
**Anh hùng xạ điêu** là phần mở đầu trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Xạ điêu tam bộ khúc của nhà văn Kim Dung. Trong truyện có nhiều nhân vật có tiểu sử riêng. Dưới
**Hương xuân** (danh pháp hai phần: _Toona sinensis_; ; ; ) hay còn gọi tên khác là _mạy sao_, _xoan hôi_, _cây thịt bò hành tây_, hay _tông dù_ là một loài cây thuộc _
**Nguyễn Xuân Huy** (1915-2000), là nhà báo, nhà văn và là nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. ## Tác giả **Nguyễn Xuân Huy** sinh ngày 15 tháng 7 năm 1915, tại làng Dũng Quyết,
**"Mùa xuân đầu tiên"** là một ca khúc nhạc vàng viết về mùa xuân do nhạc sĩ Tuấn Khanh sáng tác vào năm 1966. Đây là một trong những ca khúc xuân khá nổi tiếng
**_Mùa xuân chín_** là bài thơ do Hàn Mặc Tử sáng tác, được xếp ở phần _Hương thơm_ trong tập thơ _Đau thương_. Cùng với _Đây thôn Vĩ Dạ_, _Tình quê,_... đây là những thi
**Mùa xuân Ả Rập** (, __; ) là làn sóng cách mạng với các cuộc nổi dậy, diễu hành và biểu tình phản đối chưa có tiền lệ tại các quốc gia ở thế giới
Một trong những nữ sĩ tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương (1772–1822) sinh tại Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, được nhà thơ Xuân Diệu ưu ái gọi là
Giáo sư **Cao Xuân Huy** (1900 - 1983) là một nhà nghiên cứu chuyên về lịch sử tư tưởng triết học phương Đông, từng được gọi là "nhà đạo học" ngay từ thuở mới khoảng
**_Tuổi thanh xuân_** (, ) là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam hợp tác với CJ E&M Pictures Hàn Quốc
Tiết **Lập xuân** là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Nó là một trong số hai mươi
**_Xuân và tuổi trẻ_** là một bài hát của La Hối, phần lời do Thế Lữ viết. Cho đến hiện tại, bài hát đã trở thành ca khúc quen thuộc của mọi người mỗi khi
"**Mùa xuân trên Thành phố Hồ Chí Minh**" là một bài hát do Nhạc sĩ Xuân Hồng sáng tác với cảm xúc từ sự kiện thống nhất Việt Nam năm 1975. Những giai điệu đầu
_7 Nụ cười Xuân_ là một chương trình truyền hình hài, giải trí thực tế Việt Nam do Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với công ty Đông Tây Promotion thực
**Cao Xuân Hạo** (30 tháng 7 năm 1930 – 16 tháng 10 năm 2007) là một nhà ngôn ngữ học người Việt với nhiều đóng góp trong việc định hình phương pháp phân tích cấu
**Châu Thị Kim Xuân** (sinh ngày 26 tháng 8 năm 1956), thường được biết đến với nghệ danh **Kim Xuân**, là một diễn viên điện ảnh, diễn viên sân khấu người Việt Nam. Bà đã
**Điệu Vương** (chữ Hán: 悼王) là thụy hiệu hoặc tước hiệu của một số vị quân chủ và quan lại tướng lĩnh. ## Thụy hiệu # Thương Điệu Vương # Xuân Thu Chu Điệu Vương