✨Mùa xuân vắng lặng
Mùa xuân vắng lặng (tiếng Anh: Silent Spring) là một cuốn sách về đề tài khoa học môi trường của Rachel Carson. Tác phẩm được xuất bản vào ngày 27 tháng 9 năm 1962 và ghi lại những tác động xấu đến môi trường do sử dụng bừa bãi thuốc bảo vệ thực vật. Carson đã buộc tội ngành công nghiệp hóa chất phát tán những thông tin sai lệch, còn các quan chức nhà nước thì đồng thuận các tuyên bố tiếp thị của ngành công nghiệp này mà không mảy may ngờ vực.
Bắt đầu từ cuối những năm 1950, tức trước thời điểm xuất bản cuốn sách, Carson đã tập trung chú ý đến việc bảo vệ môi trường, đặc biệt là các vấn đề môi trường mà cô tin là do thuốc trừ sâu tổng hợp gây ra. Từ đó, kết quả nghiên cứu của cô là Mùa xuân vắng lặng ra đời, làm cho dư luận Mỹ tỏ ra quan ngại về môi trường. Cuốn sách đã chịu sự phản đối dữ dội của các công ty hóa chất. Nhưng nhờ vào hiệu ứng dư luận, tác phẩm lại xúc tiến nhiều thay đổi. Tác phẩm đã thúc đẩy đảo ngược chính sách quốc gia về thuốc trừ sâu của Hoa Kỳ, dẫn đến lệnh cấm sử dụng DDT trên toàn quốc trong nền nông nghiệp, và giúp truyền cảm hứng cho một phong trào môi trường rồi hình thành nên Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ.
Năm 1996, cuốn sách tiếp theo, Beyond Silent Spring do HF van Emden và David Peakall đồng chắp bút được xuất bản. Năm 2006, Mùa xuân vắng lặng được các biên tập viên của tạp chí Discover vinh danh là một trong 25 cuốn sách khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại.
Nghiên cứu và tác phẩm
nhỏ|trái|Chân dung tác giả cuốn sách, Rachel Carson vào năm 1940 Vào giữa những năm 1940, Carson bắt đầu lo ngại về việc sử dụng thuốc trừ sâu tổng hợp, mà nhiều loại thuốc trong số đó đã được phát triển thông qua tài trợ quân sự cho khoa học sau Thế chiến II. Chương trình diệt trừ kiến lửa năm 1957 của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ có nhiều chuyên mục như phun DDT từ trên không, trộn các loại thuốc trừ sâu khác với dầu nhiên liệu, và phun thuốc của đất tư nhân; chúng đã thúc đẩy công việc nghiên cứu của Carson, và cuốn sách tiếp theo của cô, về thuốc trừ sâu và chất độc môi trường. Các chủ đất ở Long Island đã đệ đơn yêu cầu ngừng phun thuốc, và nhiều người ở các vùng bị ảnh hưởng đã theo dõi sát sao vụ việc. Mặc dù vụ kiện đã thất bại, nhưng Tòa án Tối cao đã cấp cho những người khởi kiện quyền có được các lệnh chống lại những thiệt hại có thể xảy ra với môi trường trong tương lai, tạo cơ sở cho các hành động môi trường sau này.
Động lực thúc đẩy sáng tác Mùa xuân vắng lặng là một lá thư được viết vào tháng 1 năm 1958 bởi người bạn của Carson, Olga Owens Huckins, gửi cho The Boston Herald. Bức thư mô tả cái chết của những con chim xung quanh khu nhà của cô ấy do việc phun DDT từ trên không để diệt muỗi. Carson sau đó đã viết rằng bức thư này là động lực thúc đẩy cô nghiên cứu các vấn đề môi trường do thuốc trừ sâu hóa học gây ra.
Hiệp hội Nhà tự nhiên học Audubon tích cực phản đối các chương trình phun hóa chất và đã tuyển dụng Carson để giúp công khai các hoạt động phun thuốc của chính phủ Hoa Kỳ và các nghiên cứu liên quan. Ban đầu "Mùa xuân vắng lặng" được gợi ý để làm tiêu đề cho một chương về loài chim. Đến tháng 8 năm 1961, Carson đồng ý với gợi ý của người phụ trách văn học Marie Rodell rằng Mùa xuân vắng lặng sẽ là tựa đề ẩn dụ cho toàn bộ cuốn sáchgợi ý về một tương lai ảm đạm cho toàn bộ thế giới tự nhiênchứ không phải là chỉ một chương nghĩa đen về sự vắng mặt của tiếng chim hót. Lập luận chính của Carson là thuốc trừ sâu có tác động bất lợi đến môi trường; cô nói rằng chúng đúng hơn phải được gọi là "chất diệt sinh vật" vì tác dụng của chúng hiếm khi chỉ giới hạn ở các loài gây hại mục tiêu. DDT là một ví dụ điển hình, nhưng các loại thuốc trừ sâu tổng hợp khácnhiều loại trong số đó có hiện tượng tích lũy sinh họcđược xem xét kỹ lưỡng. Carson cáo buộc ngành công nghiệp hóa chất cố tình truyền bá thông tin sai lệch và các quan chức công chấp nhận các tuyên bố của ngành một cách thiếu cân nhắc. Phần lớn nội dung cuốn sách nói về tác động của thuốc trừ sâu đối với hệ sinh thái tự nhiên, nhưng có bốn chương trình bày chi tiết các trường hợp con người ngộ độc thuốc trừ sâu, ung thư và các bệnh khác do thuốc trừ sâu. Lời khuyên của Giám đốc Cục Bảo vệ Thực vật của Hà Lan được trích dẫn như sau: "Lời khuyên thiết thực chính là nên 'Phun càng ít càng tốt' thay vì 'Phun trong giới hạn khả năng của bạn'. Áp lực đối với quần thể sinh vật gây hại phải luôn ở mức nhẹ nhất có thể."
Mặc dù Mùa xuân vắng lặng đã tạo ra một mức độ quan tâm khá cao dựa trên việc quảng bá trước khi xuất bản, nhưng sự quan tâm trở nên gay gắt hơn khi sách được xuất bản nhiều kỳ, bắt đầu vào số ra ngày 16 tháng 6 năm 1962. Điều này đã khiến cuốn sách thu hút sự chú ý của ngành công nghiệp hóa chất và những người vận động hành lang của nó, cũng như công chúng Mỹ. Vào khoảng thời gian đó, khi Carson biết được rằng Mùa xuân vắng lặng được chọn làm cuốn sách của tháng cho tháng 10, cô nói rằng điều này sẽ "mang cuốn sách đến các trang trại và thôn xóm trên khắp đất nước – những người chẳng hình dung nổi hiệu sách ra sao – thì lại càng không biết đến The New Yorker là gì." Chiến dịch quảng bá khác bao gồm một bài xã luận tích cực trên The New York Times và các đoạn trích của phiên bản nhiều kỳ đã được đăng trên Tạp chí Audubon. Ngoài ra còn có một đợt công bố khác vào tháng 7 và tháng 8 khi các công ty hóa chất đáp trả. Câu chuyện về loại thuốc gây dị tật bẩm sinh thalidomide đã bị vỡ lở ngay trước khi cuốn sách được xuất bản, dẫn đến việc so sánh giữa Carson và Frances Oldham Kelsey, người đánh giá của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm, người ngăn chặn việc bán thuốc ở Hoa Kỳ. trong khi cựu Bộ trưởng Nông nghiệp Hoa Kỳ Ezra Taft Benson, trong một bức thư gửi cho cựu Tổng thống Dwight D. Eisenhower đã nói rằng vì cô chưa kết hôn dù cho rất ưa nhìn, cô ấy "có lẽ là một người Cộng sản".
Monsanto đã xuất bản 5.000 bản sao của một tác phẩm nhại mang tên "Năm hoang tàn" (1962), dự kiến một thế giới đói kém và dịch bệnh do cấm thuốc trừ sâu.
Nhiều nhà phê bình liên tục nói rằng Carson đang kêu gọi loại bỏ tất cả các loại thuốc trừ sâu, nhưng cô ấy đã nói rõ rằng cô không ủng hộ điều này mà thay vào đó là khuyến khích việc sử dụng có trách nhiệm và được quản lý cẩn thận với nhận thức về tác động của hóa chất đối với hệ sinh thái. Mark Hamilton Lytle viết, Carson "hoàn toàn tự giác khi quyết định viết một cuốn sách đặt câu hỏi về mô hình tiến bộ khoa học xác định nền văn hóa Mỹ thời hậu chiến". Phản ứng từ khán giả ước tính từ mười đến mười lăm triệu người đánh giá vô cùng tích cực. Chương trình đã thúc đẩy quốc hội xem xét các mối nguy hiểm của thuốc trừ sâu và công bố báo cáo thuốc trừ sâu của Ủy ban Cố vấn Khoa học của Tổng thống. Sau khi báo cáo được công bố, Carson cũng đã làm chứng trước một tiểu ban của Thượng viện Hoa Kỳ để đưa ra các khuyến nghị chính sách. Mặc dù Carson đã nhận được hàng trăm lời mời diễn thuyết khác, nhưng cô không thể nhận lời hầu hết trong số đó vì sức khỏe ngày càng giảm sút của cô. Cô nói nhiều nhất có thể, xuất hiện trên The Today Show và phát biểu tại một số bữa tối được tổ chức để vinh danh cô. Cuối năm 1963, cô nhận được hàng loạt giải thưởng và danh hiệu: Huân chương Audubon từ Hiệp hội Audubon Quốc gia, Huân chương Địa lý Cullum từ Hiệp hội Địa lý Hoa Kỳ, và được nhận vào Học viện Văn học và Nghệ thuật Hoa Kỳ. Hành động này đã khiến cây viết tiểu sử William Souder phản bác dữ dội, ông cho rằng các nội dung xuyên tạc đó được sử dụng bởi những nhà vận động phản đối Mùa xuân vắng lặng. Cùng năm đó, cuốn sách được dịch sang tiếng Pháp (với tên Printemps silencieux), và ấn bản tiếng Pháp đầu tiên cũng xuất bản. Năm 1964, cuốn sách được dịch sang tiếng Hà Lan (với tên "Dode lente"), theo Worldcat.org, ấn bản thứ hai được xuất bản vào năm 1962. Năm 1965, Mùa xuân vắng lặng được xuất bản tại Liên Xô bằng tiếng Nga (với tựa đề __). Tên tiếng Ý của cuốn sách là Primavera silenziosa.; và tựa tiếng Tây Ban Nha là Primavera silenciosa.
Ảnh hưởng
Chủ nghĩa môi trường cơ sở và EPA
Công việc của Carson đã có tác động mạnh mẽ đến phong trào môi trường. Mùa xuân vắng lặng đã trở thành một điểm tập hợp cho phong trào xã hội mới trong những năm 1960. Theo kỹ sư môi trường và học giả Carson H. Patricia Hynes, "Mùa xuân vắng lặng đã thay đổi cán cân quyền lực trên thế giới". Công việc của Carson và chủ nghĩa hoạt động mà nó truyền cảm hứng một phần chịu trách nhiệm cho phong trào sinh thái sâu sắc và sức mạnh của phong trào môi trường cơ sở kể từ những năm 1960. Nó cũng có ảnh hưởng đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa nữ quyền sinh thái và lên nhiều nhà khoa học về nữ quyền. Thành tựu rõ nét nhất của Carson trong phong trào môi trường là chiến dịch cấm sử dụng DDT ở Hoa Kỳ, và những nỗ lực liên quan để cấm hoặc hạn chế việc sử dụng nó trên toàn thế giới. Sự hình thành của Quỹ Phòng vệ Môi trường năm 1967 là cột mốc quan trọng đầu tiên trong chiến dịch chống DDT. Tổ chức đã khởi kiện chính phủ để "thiết lập quyền của công dân đối với một môi trường trong sạch", và các lập luận chống lại DDT phần lớn phản ánh Carson. Đến năm 1972, Quỹ Phòng vệ Môi trường và các nhóm hoạt động khác đã thành công trong việc đảm bảo loại bỏ dần việc sử dụng DDT ở Hoa Kỳ, trừ những trường hợp khẩn cấp. Giáo sư lịch sử Gary Kroll đã viết, "Mùa xuân vắng lặng của Rachel Carson đóng một vai trò lớn trong việc khẳng định sinh thái học như một 'chủ thể lật đổ'như một quan điểm chống lại chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa khoa học và sự kiểm soát thiên nhiên bằng những phát minh công nghệ".
Trong một cuộc phỏng vấn năm 2013, Ruckelshaus kể lại ngắn gọn quyết định cấm DDT ngoại trừ những trường hợp sử dụng khẩn cấp, lưu ý rằng cuốn sách của Carson đề cập đến DDT và vì lý do đó, vấn đề này đã thu hút sự chú ý của công chúng.
Cựu Phó Tổng thống Hoa Kỳ và nhà môi trường Al Gore đã viết lời giới thiệu cho ấn bản năm 1992 của Mùa xuân vắng lặng. Ông viết: "Mùa xuân vắng lặng đã tác động vô cùng sâu sắc... Thật vậy, Rachel Carson là một trong những lý do khiến tôi trở nên có ý thức về môi trường và quan tâm hơn đến các vấn đề môi trường... [cô ấy] đã có nhiều ảnh hưởng đến tôi hơn bất kỳ ai, và có lẽ hơn tất cả những người khác." Những lập luận này đã bị cho là "thái quá" bởi nhà khoa học Socrates Litsios trước đây của WHO. May Berenbaum, nhà côn trùng học của Đại học Illinois, nói, "đổ lỗi cho các nhà môi trường phản đối DDT gây ra nhiều cái chết hơn Hitler còn tệ hơn là vô trách nhiệm." Nhà báo điều tra Adam Sarvana và những người khác mô tả khái niệm này như một "huyền thoại" do Roger Bate của nhóm vận động ủng hộ DDT Châu Phi chống sốt rét (AFM) cổ xúy.
Trong những năm 1990 và 2000, các chiến dịch chống lại cuốn sách này đã tăng thêm, một phần do nỗ lực của ngành công nghiệp thuốc lá nhằm gây ra sự nghi ngờ lớn hơn đối với chính sách dựa trên khoa học như một cách phản đối lệnh cấm hút thuốc. Một bài báo đánh giá năm 2012 trên tạp chí Nature của Rob Dunn kỷ niệm 50 năm Mùa xuân vắng lặng và tóm tắt những thay đổi tiến bộ về chính sách môi trường được thực hiện kể từ đó, đã thúc đẩy phản hồi trong một bức thư do Anthony Trewavas viết và đồng ký bởi 10 người khác, bao gồm Christopher Leaver, Bruce Ames, Richard Tren và Peter Lachmann, những người trích dẫn ước tính từ 60 đến 80 triệu ca tử vong "là kết quả của những nỗi sợ hãi sai lầm dựa trên bằng chứng kém hiểu biết".
Nhà viết tiểu sử Hamilton Lytle tin rằng những ước tính này là không thực tế, ngay cả khi Carson có thể bị "đổ lỗi" bởi các chính sách DDT trên toàn thế giới. Hiệp ước quốc tế cấm hầu hết việc sử dụng DDT và các loại thuốc trừ sâu clo hữu cơ khácCông ước Stockholm năm 2001 về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (có hiệu lực vào năm 2004)bao gồm việc miễn trừ việc sử dụng DDT để kiểm soát bệnh sốt rét cho đến khi có thể tìm được sản phẩm thay thế giá cả phải chăng. Việc phun DDT ngoài trời hàng loạt đã bị loại bỏ ở các nước nghèo bị sốt rét, chẳng hạn như Sri Lanka, trong những năm 1970 và 1980; điều này không phải do chính phủ cấm mà vì DDT đã mất khả năng tiêu diệt muỗi. Năm 1996, cuốn sách tiếp nối, Beyond Silent Spring, do HF van Emden và David Peakall đồng viết, được xuất bản. Nhà tự nhiên học David Attenborough nhận định rằng Mùa xuân vắng lặng có lẽ là cuốn sách đã thay đổi thế giới khoa học nhiều nhất, sau Nguồn gốc các loài của Charles Darwin.