✨Vương tử William, Công tước xứ Cumberland

Vương tử William, Công tước xứ Cumberland

Vương tử William Augustus, Công tước xứ Cumberland (15 tháng 4 năm 1721 – 31 tháng 10 năm 1765) là con trai thứ ba và là con trai út của vua George II của Anh và Caroline xứ Ansbach. Ông là Công tước xứ Cumberland từ năm 1726, ông đã có một cuộc đời đầy biến động, gắn liền với các sự kiện lịch sử quan trọng, đặc biệt là trong cuộc Khởi nghĩa Jacobite năm 1746. Tuy nhiên, cuộc đời và sự nghiệp của ông cũng mang đến nhiều tranh cãi, đặc biệt ông được biết đến với biệt danh Kẻ Đồ Tể sau trận Culloden.

Cuộc sống ban đầu

William Augustus sinh ngày 15 tháng 4 năm 1721 tại Dinh Leicester, Khu Leicester (nay là Quảng trường Leicester. Ông là con trai thứ ba của vua George II và Vương hậu Caroline, ông sinh vào thời ông nội của ông, vua George II đang trị vì. Tuy nhiên, vì không phải là con trưởng, ông không được ưu tiên thừa kế ngai vàng, từ khi sinh ra ông chỉ xếp thứ 3 trong danh sách kế vị ngai vàng và thay vào đó, ông được giao nhiệm vụ tham gia các vấn đề quân sự. Vào ngày 27 tháng 7 năm 1726, khi mới 5 tuổi, ông được phong làm Công tước xứ Cumberland, Hầu tước xứ Berkhamstead ở hạt Hertford, Bá tước xứ Kennington ở hạt Surrey, Tử tước xứ Trematon ở hạt Cornwall và Nam tước của đảo Alderney. Mặc dù là một hoàng tử, ông đã được đào tạo như một sĩ quan quân đội, được huấn luyện ở Đức, nơi cha ông có liên hệ mạnh mẽ. Sau đó, ông gia nhập Quân đội Anh và bắt đầu sự nghiệp quân sự của mình. Ông đã được ghi danh vào Đội cận vệ bộ binh số 2 và được phong làm Hiệp sĩ Bath khi mới 4 tuổi. Ông được tuyển vào Lính Cận Vệ Bộ và được phong Hiệp sĩ Bath khi mới 4 tuổi. Ông được Vua và Vương hậu định hướng cho chức vụ Đô đốc Đại dương và vào năm 1740, ông đã lên tàu tham gia hải đội dưới sự chỉ huy của John Norris như một tình nguyện viên. Tuy nhiên, ông nhanh chóng không hài lòng với Hải quân, và thay vào đó đã giành được chức vụ tướng quân của Lữ đoàn Lính Cận Vệ Bộ thứ Nhất vào ngày 20 tháng 2 năm 1741.

Chiến Tranh Kế vị Áo

William bắt đầu sự nghiệp quân sự của mình trong cuộc Chiến tranh Kế vị Áo (1740–1748), một cuộc xung đột lớn giữa các cường quốc châu Âu tranh giành quyền thừa kế của Maria Theresa của Áo sau khi cha bà là Karl VI của Thánh chế La Mã qua đời. Tuy nhiên, quyền thừa kế của bà bị các quốc gia đối thủ như Phổ, Pháp, Tây Ban Nha và Bayern phản đối. Mâu thuẫn này dẫn đến một cuộc chiến kéo dài, trong đó các cường quốc châu Âu tranh giành quyền kiểm soát lãnh thổ và ảnh hưởng ở Trung Âu.

Ông được giao nhiệm vụ chỉ huy một đội quân Anh tham gia chiến đấu ở châu Âu. Tuy nhiên, ông không nổi bật trong cuộc chiến này và thường phải đối mặt với những thất bại. Dù vậy, William đã gây ấn tượng với cha mình, vua George II, về khả năng chỉ huy quân đội, mặc dù chiến công của ông trong giai đoạn này không thực sự gây chú ý đặc biệt.

Khởi nghĩa Jacobite

Sự kiện quan trọng nhất trong sự nghiệp quân sự của Hoàng tử William là Cuộc nổi dậy Jacobite 1745. Cuộc nổi dậy này là nỗ lực của Charles Edward Stuart (Bonnie Prince Charlie) để chiếm lại ngai vàng Anh cho gia đình Stuart, những người đã bị lật đổ trong cuộc Cách mạng vinh quang năm 1688, khi gia đình Hanover lên ngôi.

Trong cuộc nổi dậy này, quân đội Jacobite đã tiến vào Scotland và chiến đấu chống lại quân đội Anh. William, Công tước xứ Cumberland, được giao nhiệm vụ chỉ huy quân đội Anh để ngăn chặn cuộc nổi dậy.

Trận đánh quan trọng nhất trong cuộc chiến này là Trận Culloden vào ngày 16 tháng 4 năm 1746, gần Inverness, Scotland. Đây là trận đánh quyết định kết thúc cuộc nổi dậy Jacobite. William, với quân đội Anh, đã đánh bại quân Jacobite do Charles Edward Stuart chỉ huy. Trận Culloden diễn ra với những thiệt hại nặng nề cho quân Jacobite, và sau chiến thắng, William ra lệnh cho quân đội của mình tiến hành các cuộc trấn áp tàn bạo đối với những người ủng hộ Stuart, đặc biệt là tại các vùng nông thôn của Scotland.

Sau trận Culloden, Công tước xứ Cumberland, đã nhận được biệt danh "Kẻ Đồ Tể" (The Butcher) từ những người ủng hộ đảng Tory và đặc biệt là người Scotland và "Wiliiam ngọt ngào" (Sweet William) bởi những người ủng hộ đảng Whig do hành động tàn bạo của ông đối với dân thường và những người ủng hộ Jacobite. Ông đã ra lệnh cho quân đội của mình thực hiện các cuộc trấn áp không khoan nhượng, tàn sát hàng nghìn người, và thi hành những hình phạt nặng nề đối với bất kỳ ai có liên quan đến cuộc nổi dậy. Việc hành quyết hàng loạt, bắt giam và tra tấn dân thường đã khiến William bị mang tiếng xấu và bị xem là một nhân vật tàn nhẫn trong lịch sử.

Mặc dù ông chiến thắng trong trận Culloden và có đóng góp quân sự đáng kể trong việc duy trì quyền lực của vương tộc Hannover, nhưng danh tiếng của ông đã bị hủy hoại vì những hành động tàn bạo này.

Sau cuộc nổi dậy Jacobite, Hoàng tử William tiếp tục giữ các chức vụ quân sự cao cấp. Tuy nhiên, ông không bao giờ có thể tái lập được sự ủng hộ rộng rãi từ công chúng hoặc có ảnh hưởng lớn trong chính trị. Ông vẫn giữ tước hiệu Công tước xứ Cumberland và tham gia vào các cuộc chiến tranh sau này, nhưng không có đóng góp đáng kể nào cho sự nghiệp quân sự của mình sau trận Culloden.

Trong những năm sau, ông tham gia vào các vấn đề quân sự và chính trị của Vương quốc Anh, nhưng chủ yếu giữ vai trò thụ động và không đạt được sự nổi bật như những người anh em khác trong gia đình hoàng gia. Tình trạng sức khỏe của ông cũng bắt đầu suy yếu vào những năm cuối đời.

Cuối đời

Vương tử William không kết hôn và không có con cái.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương tử William Augustus, Công tước xứ Cumberland** (15 tháng 4 năm 1721 – 31 tháng 10 năm 1765) là con trai thứ ba và là con trai út của vua George II của Anh
**Công tước xứ Cumberland** () là một danh hiệu quý tộc được trao cho các thành viên cấp dưới của hoàng gia Anh, được đặt theo tên của hạt lịch sử Cumberland. ## Lịch sử
**Vương tử William Henry, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh** (25 tháng 11 năm 1743 – 25 tháng 8 năm 1805) là cháu trai của George II và là em trai của George III của
**Frederick Louis, Thân vương xứ Wales**, KG (1 tháng 2 năm 1707 – 31 tháng 3 năm 1751) là Trữ quân của nước Anh từ 1727 cho đến khi qua đời. Ông là con trai
**William IV của Liên hiệp Anh** (William Henry; 21 tháng 8 năm 1765 – 20 tháng 6 năm 1837) là Quốc vương Vương quốc Anh và Vua của Hannover từ 26 tháng 6 năm 1830 cho
|nhỏ|Xứ Cumberland trên lãnh thô xứ [[Anh.]] **Cumberland** là một vùng lịch sử ở Tây Bắc nước Anh có chức năng hành chính từ thế kỷ 12 cho đến năm 1974. Nó giáp với Northumberland
**Tuyển hầu quốc Hannover** ( hoặc đơn giản là _Kurhannover_; ) là một Tuyển hầu quốc của Đế quốc La Mã Thần thánh, toạ lạc ở Tây Bắc nước Đức hiện nay. Tên của nó
**Georg V** (tiếng Đức: _Georg Friedrich Alexander Karl Ernst August_; 27 tháng 05 năm 1819 - 12 tháng 06 năm 1878) là vua cuối cùng của Vương quốc Hannover, ông chính là người con duy
**George III của Liên hiệp Anh** (George William Frederick; 4 tháng 6 năm 1738 – 29 tháng 1 năm 1820) là Quốc vương Đại Anh và Ireland cho đến khi hai vương quốc hợp nhất
**Victoire xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld** (17 tháng 8 năm 1786 - 16 tháng 3 năm 1861), là một Công nữ người Đức của Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld, từng là Vương phi xứ Leiningen với tư cách là vợ
**Vương tằng tôn nữ Sophia xứ Gloucester** (Sophia Matilda; 29 tháng 5 năm 1773 – 29 tháng 11 năm 1844) là cháu chắt của George II của Đại Anh và là cháu gái gọi bác
**Vương tôn William Henry của Đan Mạch, Công tước xứ Gloucester** (24 tháng 7 năm 1689 - 30 Tháng 7 năm 1700), là con trai của Vương nữ Anne, sau là Nữ vương Anh, Ireland
**Ernst August** (sinh ngày 05 tháng 06 năm 1771 – mất ngày 18 tháng 11 năm 1851), là vua của Vương quốc Hannover từ này 02/06/1837 cho đến khi ông qua đời vào năm 1851.
thumb|Victoria của Anh Xuất thân thực sự của Victoria của Anh đã trở thành chủ đề của các cuộc nghiên cứu. Những nghi ngờ về việc này chủ yếu xoay quanh các vấn đề bệnh
**Maria Walpole** (10 tháng 7 năm 1736 – 22 tháng 8 năm 1807) là một thành viên của Vương thất Anh. Thông qua cuộc hôn nhân đầu với James Waldegrave, Bá tước Waldegrave thứ 2,
**Mary Adelaide xứ Cambridge** (Mary Adelaide Wilhelmina Elizabeth; 27 tháng 11 năm 1833 - 27 tháng 10 năm 1897) là một thành viên của vương thất Anh. Bà là cháu nội của Quốc vương George
**Augusta của Đại Anh** (tiếng Anh: _Augusta Frederica of Great Britain_; 31 tháng 7 năm 1737 – 23 tháng 3 năm 1813) là một công chúa Anh, cháu gái của vua George II và là
**George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
**George II của Vương quốc Liên hiệp Anh** (George Augustus, tiếng Đức: _Georg II. August_, 30 tháng 10 hoặc 9 tháng 11 năm 1683 – 25 tháng 10 năm 1760) là Quốc vương Liên hiệp
**George IV** hay **George Đệ Tứ** (tên tiếng Anh: George Augustus Frederick; 12 tháng 8 năm 1762 – 26 tháng 6 năm 1830) là Quốc vương Vương quốc Anh và Vua của Hannover từ sau
**Charles I của Anh** (19 tháng 11 năm 1600 – 30 tháng 1 năm 1649) là vua của ba vương quốc Anh, Scotland, và Ireland từ 27 tháng 3 năm 1625 đến khi bị hành quyết
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Vương quốc Hannover** (tiếng Đức: _Königreich Hannover_; tiếng Anh: _Kingdom of Hanover_) được thành lập vào tháng 10/1814 bởi Đại hội Viên trên cơ sở lãnh thổ cũ của Tuyển hầu quốc Hannover (Braunschweig-Lüneburg) trong
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Louisa của Đại Anh** (18 tháng 12 (lịch cũ) 1724 – 19 tháng 12 năm 1751) là Vương hậu Đan Mạch và Na Uy từ năm 1746 cho đến khi qua đời với tư cách
**Anne của Đại Anh và Ireland** (tiếng Anh: _Anne, Queen of Great Britain_; 6 tháng 2, năm 1665 – 1 tháng 8, năm 1714), là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland,
**Mary của I Scotland** (tiếng Anh: _Mary, Queen of the Scots_; tiếng Pháp: _Marie Ire d’Écosse_; 8 tháng 12, 1542 – 8 tháng 2, 1587), thường được gọi là **Nữ vương Mary**, **Nữ hoàng Mary**,
**Florence Nightingale** (; 12 tháng 5 năm 182013 tháng 8 năm 1910) là một nhà cải cách xã hội, nhà thống kê học người Anh và là nhà sáng lập của ngành điều dưỡng hiện đại. Nightingale
**Chiến tranh giành độc lập lần thứ nhất của Scotland** (tiếng Anh: The First War of Scottish Independence), là giai đoạn đầu tiên trong một loạt các cuộc chiến tranh giữa hai vương quốc Anh
**South Carolina** () là một tiểu bang thuộc phía đông nam của Hoa Kỳ. Phía bắc giáp North Carolina, phía đông nam giáp Đại Tây Dương và phía tây nam giáp Georgia dọc theo sông
**Virginia** (phát âm tiếng Việt: Vơ-gin-ni-a; phát âm tiếng Anh: ), tên chính thức là **Thịnh vượng chung Virginia** (), là một bang nằm tại khu vực Nam Đại Tây Dương của Hợp chúng quốc
**Miền Bắc nước Anh** hay **Bắc Anh** () được xem là một khu vực văn hoá riêng. Khu vực trải dài từ biên giới với Scotland tại phía bắc đến gần sông Trent tại phía
**_Leviathan hay Vật chất, Hình thức và Quyền lực của một Nhà nước, Giáo hội và Dân sự_** (Tiếng Anh: _Leviathan or The Matter, Forme and Power of a Common-Wealth, Ecclesiasticall and Civil_), thường được
**Chiến tranh Cách mạng Mỹ** (1775 - 1783), còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Mỹ**, là một cuộc chiến vào thế kỷ 18 giữa Vương quốc Đại Anh và Mười ba xứ
thumb|người đàn ông mặc chiếc kilt nhỏ **Kilt** ( []) được sử dụng để mô tả một tấm vải quấn quanh phần dưới cơ thể như dạng chiếc váy nam, và được cố định bằng
**Bóng đá** là tên gọi chung của một nhóm bao gồm nhiều môn thể thao đồng đội khác nhau nhưng đều có liên quan tới việc đá một trái banh vào khung thành để ghi