✨Vườn quốc gia Gunung Mulu

Vườn quốc gia Gunung Mulu

Vườn quốc gia Gunung Mulu là một vườn quốc gia nằm tại huyện Marudi, Miri, Sarawak, Malaysia. Đây là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận bao gồm các hang động và thành tạo karst trong một khu vực núi có những cánh rừng mưa nhiệt đới. Vườn quốc gia nổi tiếng với những hang động và những cuộc thám hiểm khám phá các hang động và khu rừng nhiệt đới xung quanh, đáng chú ý nhất là cuộc thám hiểm của Hiệp hội Địa lý Hoàng gia năm 1977–1978 với 100 nhà khoa học đã đến đây trong 15 tháng. Tên của vườn quốc gia được đặt theo Núi Mulu, là ngọn núi cao thứ hai ở Sarawak.

Lịch sử

thumb|[[Buồng hang Api trong hang Whiterock, núi Api, được chụp trong chuyến thám hiểm năm 2005.]] Tài liệu sớm nhất về các hang động tại Gunung Mulu là vào năm 1858 khi Spenser St. John lúc đó là Lãnh sự Anh tại Brunei đề cập đến những khối đá vôi riêng rẽ bị xói mòn bởi nước, với những hang động và đường hầm tự nhiên trong cuốn sách của ông có tựa đề "Life in the Forests of the Far East" (Cuộc sống trong các khu rừng của Viễn Đông). Spenser đã cố gắng leo lên núi Mulu sau đó nhưng không thành công do các vách đá vôi, rừng rậm và các đỉnh nhọn.

Vào thế kỷ 19, Charles Hose của Vương quốc Sarawak đã cố gắng leo lên núi Mulu nhưng không thành công. Chỉ đến những năm 1920, khi một thợ săn tê giác Berawan tên là Tama Nilong phát hiện ra sườn núi phía tây nam gần ngọn núi cuối cùng dẫn lên đỉnh núi. Năm 1932, Tama Nilong dẫn Lord Shackleton trong một cuộc thám hiểm của Đại học Oxford tới đỉnh núi Mulu, và đây là lần đầu tiên chinh phục thành công núi Mulu. Năm 1961, G.E. Wilford thuộc Cơ quan Khảo sát Địa chất Malaysia đã đến thăm các hang động Mulu. Ông đã khảo sát hang Deer và hang Winds. Ông cũng đưa ra dự đoán rằng, sẽ còn nhiều hang động tại đây sẽ được khám phá trong tương lai. Đây là chuyến thám hiểm lớn nhất từng được phái đến từ Vương quốc Anh. Cuộc thám hiểm kéo dài trong 15 tháng và đã khám phá được 50 km hang động. trong cuộc thám hiểm này, Hệ thống hang Clearwater, hang Green, Wonder và Prediction đã được thăm dò. Do đó, việc khám phá các hang động ở sườn phía tây của núi Api được tiến hành. Vào tháng 12 năm 1980, một đội thám hiểm khác của Anh đã được gửi đến hang động của Mulu trong bốn tháng, và buồng hang Sarawak nằm trong Gua Nasib Bagus đã được phát hiện. Năm 1984, Gunung Mulu được công nhận là Vườn di sản ASEAN, một trong những địa điểm đầu tiên có được danh hiệu này. Năm 1985, vườn quốc gia chính thức mở cửa cho công chúng tham quan. Năm 1991, một lối đi khác đã được phát hiện giữa hang Blackrock và Clearwater, làm cho hang Clearwater kéo dài lối đi lên thành , trở thành lối đi hang động dài thứ 7 trên thế giới. Giữa năm 1993 và 2000, các đoàn thám hiểm Anh đã khám phá sườn phía đông của núi Api với một số khám phá được thực hiện tại Thung lũng Hidden. Trong những cuộc thám hiểm này, hang Deliveryance đã được phát hiện.

Từ năm 2000, các đoàn thám hiểm người Anh đã chuyển trọng tâm để khám phá các hang động xung quanh núi Benarat. Hang Whiterock đo đó được phát hiện vào năm 2003. Năm 2005, lối đi liên kết hang Whiterock với hệ thống hang Clearwater được phát hiện, do đó mở rộng hệ thống hang Clearwater lên tới 129,4 km.Buồng han Api cũng được phát hiện trong cuộc thám hiểm đó. Các cuộc thám hiểm tiếp theo được tập trung vào việc khám phá thêm những lối đi còn ẩn giấu trong hang Whiterock. Năm 2017, chiều dài hang Whiterock được đo là và hang Clearwater được đo lên đến . Vườn quốc gia này nằm cách từ Brunei, giữa thượng nguồn sông Tutoh và Mendalam, nhánh của sông Limbang. Phía tây của vườn quốc gia là khu vực đất thấp (chiếm 38% diện tích vườn quốc gia) trong khi phía đông là các dãy núi đá vôi và sa thạch. Địa hình vườn quốc gia bao gồm các đỉnh núi gồ ghề, sườn núi dốc, vách núi, vách đá tuyệt đẹp, hẻm núi, háp karst, hang động, suối nước nóng, vùng ngập lũ và thác nước. Mulu là một ngọn núi sa thạch trong khi Api và Benarat là những ngọn núi đá vôi. Đỉnh núi Mulu được bao phủ bởi những khu rừng rêu, trong khi trên núi Api là rất nhiều những tháp karst lởm chởm. Hẻm núi Melinau chia tách hai núi Benarat và Api, còn hẻm núi Medalem chia tách núi Buda và Benarat., hang Deer (hang có lối đi chính lớn nhất giới) và hang Clearwater (hệ thống hang động dài nhất Đông Nam Á). Buồng hang Sarawak dài , rộng , cao ít nhất , với thể tích . Hang Deer có đường kính lối đi từ tới , Các hang động khác trong khu vực này gồm hang Good Luck, Benarat và Winds.

Đa dạng sinh học

Động vật

Vườn quốc gia này là nơi có 20.000 loài động vật không xương sống, 81 loài động vật có vú, 270 loài chim, 55 loài bò sát, 76 loài lưỡng cư và 48 loài cá. Ễnh ương Borneo, Cóc suối Gunung Mulu.

Thực vật

Gunung Mulu chứa một số lượng lớn các loài thực vật. Tại đây có 17 vùng thực vật với 3.500 loài thực vật có mạch và 1500 loài thực vật có hoa. Có 109 loài của 20 chi thuộc Họ Cau, hơn 1.700 loài Rêu và Rêu tản, 8.000 loài nấm và 438 loài Pteridophyte được ghi nhận. Các vùng thực vật được tìm thấy trong vườn quốc gia là Rừng đầm lầy than bùn, Rưng dầu hỗn hợp, Rừng nhiệt đới, Rừng núi cao, rừng rêu. Rừng đất thấp chiếm khoảng 40% diện tích vườn quốc gia trong khi rừng trên núi là 20%.

Trong những khu rừng đầm lầy than bùn là sự phổ biến của những cây Vả sống bám, hay được gọi là cây "thắt cổ". Rừng dầu hỗn hợp xuất hiện ở khu vực có độ cao trên 800 mét, với những loài như Gụ Philippine, Sầu riêng, Bứa, Mù u, Vối. Từ 800 đến 1.200 mét là sự có mặt của những khu rừng núi thấp, tại đây chiếm ưu thế là những cây Sồi. Rừng núi cao có mặt ở độ cao từ 1.200 đến 2.170 mét. Thực vật biểu sinh có nhiều tại đây. Tán cây có chiều cao từ 10-20 mét. Nhiều loài cây bụi gồm Đỗ quyên, Việt quất và một số loại Cây nắp ấm như Nepenthes lowii (Nắp ấm Low), Nepenthes tentaculata, Nepenthes muluensis (Nắp ấm Mulu) đều là những loài đặc hữu của núi Mulu.

Ngoài ra, còn có các khu rừng đá vôi chủ yếu được tạo thành từ các loài thực vật đá vôi. Những khu rừng này bao gồm: rừng trên sườn núi đá vụn, thảm thực vật vách đá, thảm thực vật hang động và rừng trên núi cao. Một số loài được tìm thấy tại đây gồm Monophyllae beccarii, Calamus neilsonii và loài cọ đặc hữu Salacca rupicola.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vườn quốc gia Gunung Mulu** là một vườn quốc gia nằm tại huyện Marudi, Miri, Sarawak, Malaysia. Đây là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận bao gồm các hang động và thành
**Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng** là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm tại xã Bố Trạch và Minh Hóa, tỉnh Quảng Trị, cách phường Đồng Hới khoảng 50 km về phía
**Danh sách vườn quốc gia Malaysia**: ## Khu vực Malaysia bán đảo * Vườn quốc gia Taman Negara * Vườn quốc gia Endau Rompin * Vườn Bang Gunung Stong * Vườn Bang Royal Belum *
nhỏ|[[Vườn quốc gia Ba Bể, Vườn di sản ASEAN của Việt Nam.]] nhỏ|[[Hồ Inle, Myanmar.]] nhỏ|Thác nước Haeo Suwat trong [[Vườn quốc gia Khao Yai, Thái Lan.]] nhỏ|[[Núi Api, một phần của Vườn di sản
**Sarawak** (Phiên âm tiếng Việt: Sa-ra-vác) là một trong hai bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sabah). Lãnh thổ này có quyền tự trị nhất định trên lĩnh vực hành chính, nhập
**Sân bay Mulu** là một sân bay ở bang Sarawak của Malaysia, là cửa ngõ vào Vườn quốc gia Gunung Mulu. Có một số khu nghỉ dưỡng ở Vườn quốc gia này nhưng các làng
**Borneo** hay **Kalimantan** là đảo lớn thứ ba thế giới và lớn nhất tại châu Á. Đảo thuộc Đông Nam Á hải đảo, nằm về phía bắc của đảo Java, phía tây đảo Sulawesi và
nhỏ|300x300px|[[Hang Sơn Đoòng|Động Sơn Đoòng, Quảng Bình, Việt Nam]] **Hang** hay **hang động** là một khoảng trống tự nhiên đủ lớn trong lòng đất . Không có ấn định chặt chẽ về kích thước của
**_Scaphochlamys gracilipes_** là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Karl Moritz Schumann mô tả khoa học đầu tiên năm 1899 dưới danh pháp _Haplochorema gracilipes_. Năm 2006, Shoko Sakai
Dưới đây là danh sách các Di sản thế giới do UNESCO công nhận tại châu Á và châu Đại Dương. ## Afghanistan (2) nhỏ|[[Minaret ở Jam|trái]] * Tháp giáo đường ở Jam và các
UNESCO đã công nhận 4 di sản thế giới tại Malaysia. Các di sản đầu tiên tại Malaysia đều mang giá trị thiên nhiên là Vườn quốc gia Gunung Mulu và Công viên Kinabalu được
thumb|right thumb|right **Hang Sơn Đoòng** là một hang động tự nhiên tại xã Tân Trạch, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Hang Sơn Đoòng được coi là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới đã
**_Zingiber kelabitianum_** là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Ida Theilade và Hanne Christensen miêu tả khoa học đầu tiên năm 1998. Tên gọi trong tiếng Kerabit là _tubuh
**Hang Hươu** () là một hang ở Borneo, Malaysia, trong Vườn quốc gia Gunung Mulu, một di sản thế giới được UNESCO công nhận. Hang Hươu có chiều cao 196.64 m, rộng 90 m, dài
**_Parashorea macrophylla_** là một loài thực vật thuộc họ Dipterocarpaceae. Tên gọi _macrophylla_ xuất phát từ tiếng Hy Lạp (_makros_ = to và _phullon_ = lá) để chỉ kích thước cực lớn của lá cây
**_Spilornis kinabaluensis_** là một loài chim trong họ Accipitridae. Đây là loài săn mồi được tìm thấy ở miền bắc Borneo. Loài chim này được tìm thấy ở độ cao 1.000–4.100 mét (3.300–13.500 ft) trong rừng,
**_Calyptomena hosii_** là danh pháp khoa học của loài chim thuộc họ Calyptomenidae. Loài này được nhà tự nhiên học người Anh Richard Bowdler Sharpe mô tả vào năm 1892 và được đặt tên theo
**_Nepenthes vogelii_** là một loài nắp ấm thuộc họ Nắp ấm. Đây là loài đặc hữu Borneo. Người ta cho rằng nó có quan hệ gần nhất với loài _N. fusca_. Mẫu được biết đến đầu
**Mang vàng Borneo**, tên khoa học là **_Muntiacus atherodes_**, là một loài động vật có vú trong họ Hươu nai, bộ Guốc chẵn. Loài này được Groves & Grubb mô tả năm 1982. ## Phân
**_Shorea superba_** là một loài của thực vật thuộc họ Dipterocarpaceae. Tên gọi của loài này xuất phát từ Latin (_superbus_ = hoành tráng) để chỉ dáng vẻ to đẹp của cây. Đây là một