✨Tượng Nhân sư lớn ở Giza

Tượng Nhân sư lớn ở Giza

Tượng Nhân sư lớn ở Giza ( , ), thường được biết đến với tên gọi tượng Nhân sư, là một bức tượng làm bằng đá vôi hình một con nhân sư (một sinh vật truyền thuyết với thân sư tử và đầu người) trong tư thế phủ phục nằm ở cao nguyên Giza, trên tả ngạn sông Nile tại Giza, Ai Cập.

Đây là bức tượng nguyên khối lớn nhất thế giới, dài và cao và là một trong những bức điêu khắc nguyên khối lâu đời nhất. Bức tượng được cho là do người Ai Cập cổ đại ở thời kỳ Cổ Vương quốc xây dựng, dưới triều đại của Pharaon Khafra (2558-2532 trước công nguyên).

Nguồn gốc và đặc điểm

nhỏ|Gia đình Hoàng tộc Brasil đứng trước tượng Nhân sư năm 1871 nhỏ|phải|Tượng Nhân sư khoảng những năm 1880, bị cát vùi lấp một phần nhỏ|phải|Tượng Nhân sư trước [[Kim tự tháp Khafre]] Tượng Nhân sư là bức tượng lớn và lâu đời nhất thế giới, nhưng những thông tin cơ bản về nó như thời điểm và người xây dựng vẫn đang bị tranh cãi. Những câu hỏi này đã dẫn tới quan niệm phổ biến về "Câu đố của Nhân sư," ám chỉ huyền thoại Hy Lạp về Bí ẩn Nhân sư.

Pliny The Elder đã nhắc đến tượng Nhân sư trong cuốn sách Natural History của mình, nhận xét rằng người Ai Cập tôn thờ bức tượng như một vị thần và "Vua Harmais đã được mai táng ở đó".

Tên gọi

thumbnail|right thumbnail|right|Ảnh tượng Nhân sư lưu giữ ở Bảo tàng Brooklyn Tên mà người xây dựng nên bức tượng dùng để gọi nó không được biết đến, bởi tượng Nhân sư không hề xuất hiện trong bất kỳ văn tự nào từ thời kỳ Cựu vương quốc. Trong thời kỳ Tân Vương quốc, tượng Nhân sư được gọi là Hor-em-akhet (; Hellenized: Harmachis), pharaon Thutmose IV (1401-1391 hoặc 1397-1388 trước công nguyên) cũng gọi bức tượng như vậy trong Tấm bia Giấc mơ của mình.

Tên thường gọi Nhân sư được đặt cho bức tượng vào khoảng 2000 năm sau thời điểm xây dựng do những điểm tương đồng với con thú trong thần thoại Hy Lạp có thân sư tử, đầu người phụ nữ và cánh đại bàng (mặc dù tượng Nhân sư có đầu người đàn ông và không có cánh giống như những con Nhân sư Ai Cập khác). Từ tiếng Anh sphinx bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ đại Σφίγξ (chuyển ngữ: ), dường như từ động từ σφίγγω (chuyển ngữ: / ), dựa trên truyền thuyết rằng con nhân sư Hy Lạp đã bóp cổ bất kỳ ai không trả lời được câu đố của nó. Từ tiếng Anh sphincter cũng có chung nguồn gốc.

Cũng có thể tên gọi này có nguồn gốc từ việc phát âm sai từ tiếng Ai Cập cổ Ssp-anx, tên gọi dành cho hoàng gia ở Vương triều thứ Tư (2575-2467 trước công nguyên trở đi) cũng như cho tượng Nhân sư trong thời kì Tân vương quốc (1570-1070 trước công nguyên), mặc dù về mặt phát âm hai từ này không hề giống nhau.

Các nhà văn Ả Rập thời trung cổ, bao gồm al-Maqrīzī, gọi tượng Nhân sư là balhibbilhaw, cho thấy ảnh hưởng của tiếng Copt. Ngày nay, tên tiếng Ả Rập của bức tượng là أبو الهول (, ).

Quá trình xây dựng và khung thời gian

Mặc dù có những xung đột về chứng cứ và ý kiến trong nhiều năm, quan điểm chung của hầu hết giới Ai Cập học hiện đại là tượng Nhân sư được xây dựng vào khoảng năm 2500 trước công nguyên bởi Pharaon Khafra, người xây Kim tự tháp Khafre ở Giza.

Selim Hassan trong khi viết về những cuộc khai quật tượng Nhân sư vào năm 1949 đã khái quát lại vấn đề:

"Sau khi đã xem xét tất cả mọi thứ, có vẻ như chúng ta phải ghi nhận công xây dựng bức tượng tuyệt vời nhất thế giới này cho Khafre, nhưng phải luôn lưu ý rằng: không hề có một văn tự nào chỉ ra mối quan hệ giữa tượng Nhân sư và Khafre; vì vậy, dù các chứng cứ trông có vẻ đúng đắn bao nhiêu đi chăng nữa, chúng ta phải coi chúng là do suy diễn, cho đến khi một nhát xẻng của nhà khảo cổ nào đó tiết lộ cho cả thế giới biết thông tin chính xác về việc tạo ra tượng Nhân sư."

Chứng cứ "suy diễn" được Hassan nhắc tới bao gồm vị trí của bức tượng nằm trong khu mai táng xung quanh Kim tự tháp Khafre, thường được coi là có mối liên hệ với Khafra. Ngoài Kim tự tháp và tượng Nhân sư, khu tổ hợp này còn bao gồm ngôi đền Nhân sư và ngôi đền Thung lũng, cả hai đều có chung một kiểu kiến trúc và được xây dựng từ những khối đá nặng 200 tấn.

Một bức tượng làm bằng đá diorit của Khafre, được tìm ra trong trạng thái bị chôn vùi trong đống đổ nát ở ngôi đền Thung lũng, cũng được xem là bằng chứng cho giả thuyết về Khafra.

Tấm bia Giấc mơ, xuất hiện rất lâu sau đó dưới Triều đại của pharaon Thutmose IV (1401-1391 hoặc 1397-1388 trước công nguyên) cũng liên kết tượng Nhân sư với Khafra. Khi tấm bia được tìm thấy, những dòng văn tự trên bề mặt của nó đã bị hủy hoại và chỉ nhắc tới Khaf, chứ không phải Khafra.

"... chúng ta mang tới cho ngài: bò... và rau quả tươi tốt; và chúng ta sẽ ngợi ca _Wenofer_... _Khaf_... bức tượng dành cho _Atum-Hor-em-Akhet_."

Nhà Ai Cập học Thomas Young, khi tìm ra các ký tự Khaf trong một hình ô van bao quanh tên hoàng gia, đã thêm vào ký tự ra để hoàn chỉnh tên của Khafra. Khi tấm bia được khai quật lại vào năm 1925, những dòng chữ nhắc đến Khaf đã bong ra và bị phá hủy.

Những giả thuyết bất đồng

Những giả thuyết mà các nhà Ai Cập học đưa ra về thời điểm xây dựng tượng Nhân sư lớn ở Giza đã gặp phải sự phản đối, đồng thời nhiều giả thuyết khác cũng đã được nêu lên để giải thích việc xây dựng bức tượng.

Các nhà Ai Cập học đầu tiên

Một số những nhà Ai Cập học và khảo cổ học đầu tiên cho rằng tượng Nhân sư và các công trình xung quanh nó có từ trước thời điểm xây dựng được công nhận (Triều đại của Khafre hay Khephren, 2520-2492 TCN.

Năm 1857, Auguste Mariette, người sáng lập Bảo tàng Ai Cập ở Cairo, đã khai quật được những tấm bia có niên đại ước tính khoảng năm 678-525 trước công nguyên ở Vương triều thứ 26 kể về việc Khufu tìm thấy tượng Nhân sư đang bị cát chôn vùi. Mặc dù các tấm bia chứa một vài bằng xác thực, đoạn văn này bị xem là kết quả của việc viết lại lịch sử trong thời kỳ Hậu nguyên.

Gaston Maspero, nhà Ai Cập học người Pháp và là giám đốc thứ hai của Bảo tàng Ai Cập ở Cairo, đã thực hiện một cuộc khảo sát về tượng Nhân sư vào năm 1886 và kết luận:

"Tấm bia tượng Nhân sư cho thấy, ở dòng 13, hình ô van chứa tên của Khephren. và các vị vua tiền nhiệm [ví dụ như Vương triều thứ Tư, 2575-2467 trước công nguyên]."

Năm 1904, nhà Ai Cập học người Anh E. A. Wallis Budge viết trong tác phẩm The Gods of the Egyptians:

"Vật vĩ đại này [tượng Nhân sư] đã tồn tại từ thời của Khafre, hay Khephren,

Những giả thuyết bất đồng hiện nay

Rainer Stadelmann, cựu giám đốc Viện Khảo cổ Đức ở Cairo, đã nghiên cứu ý nghĩa biểu tượng học đặc trưng của chiếc mũ đội đầu nemes và bộ râu đã bị rời ra của tượng Nhân sư và kết luận rằng kiểu trang phục này liên quan nhiều hơn tới Pharaon Khufu (2589-2566 trước công nguyên), người đã xây Kim tự tháp Kheops và là cha của Khafra. Dobrev cho rằng Djedefre xây bức tượng dựa theo hình ảnh của cha mình, liên kết ông với vị thần mặt trời Ra để phục hồi sự kính trọng đối với Vương triều của họ. Dobrev cũng nhận thấy rằng việc con đường đắp cao kết nối kim tự tháp của Khafre với hai ngôi đền được xây xung quanh tượng Nhân sư cho thấy bức tượng đã tồn tại ở thời điểm đó.

Frank Domingo, một nhà khoa học pháp y của Sở Cảnh sát thành phố New York và là chuyên gia pháp y nhân chủng học đã sử dụng kích thước chi tiết của bức tượng, những bức vẽ giải phẫu và đồ họa máy tính để kết luận rằng Khafra, được mô tả trên những tác phẩm điêu khắc còn sót lại, không phải là hình mẫu cho khuôn mặt của tượng Nhân sư.

Giả thuyết về sự xói mòn do nước

Giả thuyết về sự xói mòn của tượng Nhân sư do nước cho rằng sự phong hóa trên những bức tường xung quanh tượng Nhân sư chỉ có thể được gây ra bởi mưa lớn kéo dài, và rằng bức tượng do đó phải có từ trước pharaon Khafra. Giả thuyết này chủ yếu được ủng hộ bởi nhà địa chất học Robert M. Schoch, giáo sư khoa học tự nhiên của trường đại học Boston và John Anthony West, nhà văn và nhà Ai Cập học.

Giả thuyết về sự tương quan với chòm sao Lạp Hộ

Giả thuyết về sự tương quan với chòm sao Lạp Hộ, do các tác giả nổi tiếng Graham Hancock và Robert Bauval đề xướng, được dựa trên vị trí tương quan tuyệt đối của 3 kim tự tháp Giza với 3 ngôi sao ζ Ori, ε Ori và δ Ori, các ngôi sao tạo nên đai lưng Lạp Hộ, dựa trên vị trí tương đối của 3 ngôi sao này vào năm 10500 trước công nguyên. Hai tác giả cho rằng mối quan hệ về mặt địa lý giữa tượng Nhân sư, các kim tự tháp Giza và sông Nile tương xứng trực tiếp lần lượt với các chòm sao Sư Tử, Lạp Hộ và dải Ngân Hà. Giả thuyết này bị coi là đi ngược lại với các học thuyết thông thường.

Giả thuyết về thần Anubis

Tác giả Robert K. G. Temple đưa ra giả thuyết rằng tượng Nhân từ đầu đã là một bức tượng của Anubis, vị thần của việc mai táng, và rằng khuôn mặt của bức tượng đã được tạc lại để trông giống Amenemhet II, một vị pharaoh của giai đoạn Trung Vương quốc, dựa trên cách trang điểm mắt cũng như kiểu nếp gấp của mũ đội đầu.

Đặc điểm sắc tộc

Một số tác giả đã nhận xét về những đặc điểm mà họ gọi là "Negroid" trên khuôn mặt của tượng Nhân sư. Vấn đề này đã trở thành một phần của những tranh cãi về sắc tộc của người Ai Cập cổ đại, cũng như toàn bộ loài người cổ đại. Khuôn mặt của bức tượng đã bị phá hủy trong suốt nhiều thiên niên kỷ.

Phân tích y khoa

Bác sĩ phẫu thuật Ashrafian của học viện Hoàng gia London đã phân tích tượng Nhân sư và cho rằng bức tượng có thể đã tượng trưng cho một người mắc chứng hàm nhô, tức là được xây dựng dựa trên hình ảnh của một người mắc chứng bệnh này. Ngoài ra, vì tượng Nhân sư có hình dáng của một con sư tử, người đó cũng có thể đã mắc một chứng bệnh liên quan gây ra những đặc điểm giống sư tử (Leontiasis ossea).

Trùng tu

Sau khi khu lăng mộ Giza bị bỏ hoang, tượng Nhân sư dần bị cát vùi lấp đến vai. Nỗ lực khai quật đầu tiên được ghi lại có từ năm 1400 trước công nguyên, khi vị vua trẻ Thutmose IV (1401-1391 hay 1397-1388 trước công nguyên), sau nhiều cố gắng đã tìm cách đào ra hai chân trước. Ông đặt giữa chúng một tấm bia làm bằng đá hoa cương, được biết đến với tên gọi Tấm bia Giấc mơ, có khắc những văn tự sau (trích):

... người con hoàng tộc, Thothmos, lúc đến đây, khi đang đi giữa buổi trưa và ngồi dưới bóng của vị thần đầy quyền năng này, đã bị cơn buồn ngủ xâm chiếm và thiếp đi ngay tại thời điểm Ra ở trên đỉnh [thiên đường]. Chàng thấy vị thần tháng tám nói chuyện với mình, như một người cha nói chuyện với con trai, rằng: Hãy ngắm nhìn, chiêm ngưỡng ta, hỡi con trai ta Thothmos; ta là cha con, Harmakhis-Khopri-Ra-Tum; ta ban cho con quyền cai trị vùng đất của ta, sự tối thượng trên hết tất cả;... Hãy làm theo điều kiện của ta rằng con sẽ bảo vệ chân tay hoàn mỹ của ta. Cát của sa mạc nơi ta nằm đã vùi lấp ta. Hãy cứu ta, giải phóng tất cả những gì ta có trong tim.

Sau đó, Ramesses II (1279-1213 trước công nguyên) có thể đã thực hiện một cuộc khai quật thứ hai.

Nhà Ai Cập học Mark Lehner lúc đầu cho rằng đã có những cuộc trùng tu sớm hơn giai đoạn Cổ Vương quốc (2686-2184 trước công nguyên) rất nhiều, nhưng sau đó đã chối bỏ tư tưởng "dị giáo" của mình.

Năm 1817, cuộc khai quật khảo cổ học đầu tiên, do thuyền trưởng Giovanni Battista Caviglia người Ý giám sát, đã giải phóng toàn bộ phần ngực của bức tượng. Việc khai quật tượng Nhân sư được hoàn thành từ năm 1925 đến năm 1936 với những cuộc khai quật do Émile Baraize chỉ đạo.

Năm 1931 các kỹ sư của chính phủ Ai Cập đã sửa lại phần đầu bức tượng khi một số phần của mũ đội đầu bị rơi ra vào năm 1926 do xói mòn cắt sâu vào phần cổ.

Chiếc mũi và bộ râu bị mất

nhỏ|phải|Tượng Nhân sư nhìn từ một bên năm 2010 nhỏ|upright|Những mảnh vỡ [[đá vôi từ bộ râu của tượng Nhân sư]] Chiếc mũi rộng 1 mét trên gương mặt của bức tượng đã bị mất. Kết quả khảo sát cho thấy những vết đục bao gồm một vết từ sống mũi và một vết bên dưới lỗ mũi, từ đó toàn bộ chiếc mũi bị rời ra.

Nhà sử học người Ả Rập al-Maqrīzī đã viết vào thế kỷ XV rằng việc chiếc mũi bị mất là do sự phá hoại của Muhammad Sa'im al-Dahr, một người Hồi giáo mật tông đến từ Sa'id al-Su'ada. Năm 1378, khi chứng kiến việc những nông dân trong vùng cúng lễ vật cho bức tượng để cải thiện mùa màng, Sa'im al-Dahr trở nên phẫn nộ đến mức phá hủy chiếc mũi, rồi sau đó bị treo cổ vì tội phá hoại. Al-Maqrīzī miêu tả tượng Nhân sư là "tấm bùa của sông Nile" bởi người dân trong vùng tin rằng bức tượng quyết định chu kỳ nước lũ.

Cũng có một câu chuyện cho rằng chiếc mũi bị vỡ do đạn đại bác mà quân lính của Napoleon bắn. Theo một số dị bản khác thì việc này là do binh lính Anh, các chiến binh Mamluk, vân vân. Những bản vẽ tượng Nhân sư của Frederic Louis Norden, người Đan Mạch, tên là "View of the Sphinx, near Cairo", thực hiện năm 1737 và xuất bản năm 1755, cho thấy bức tượng đã bị mất mũi.

Bên cạnh chiếc mũi, một bộ râu pharaon cũng được cho là đã nằm trên khuôn mặt của bức tượng, mặc dù có thể nó được thêm vào sau khi bức tượng đã được hoàn thành. Nhà Ai Cập học Vassil Dobrev cho rằng nếu bộ râu đã từng là một phần của bức tượng ngay từ đầu thì chiếc cằm cũng phải bị phá hủy khi nó rơi xuống. Ông cũng kết luận rằng tượng Nhân sư, ngôi đền Nhân sư, con đường đắp cao và ngôi đền tổ chức đám tang Khafra tất cả đều nằm trong một khu phức hợp có từ trước Vương triều thứ năm (2613-2494 trước công nguyên). Sư tử từ lâu đã trở thành biểu tượng liên quan đến mặt trời ở các nền văn minh Tây Á cổ đại. Những hình ảnh mô tả vị vua Ai Cập dưới dạng một con sư tử đang tấn công kẻ thù bắt đầu xuất hiện từ giai đoạn Sơ Triều đại.

Trong thời kỳ Tân vương quốc, tượng Nhân sư mang mối liên hệ đặc biệt với vị thần Hor-em-akhet (Harmachis) hay Horus trên Đường chân trời, đại diện cho pharaon trong vai trò Shesep-ankh (Hình ảnh sống) của vị thần Atum. Pharaon Amenhotep II (1427-1401 hay 1397 trước công nguyên) đã xây một ngôi đền về phía đông bắc của tượng Nhân sư gần 1000 năm sau khi bức tượng được xây dựng để thờ thần Hor-em-akhet.

Các phim tài liệu nổi tiếng

Mystery of The Sphinx, lời kể của Charlton Heston, một bộ phim tài liệu về những giả thuyết của John Anthony West, được lên sóng trên kênh NBC vào ngày 10 tháng 11 năm 1993 và nhận được giải Emmy dành cho nghiên cứu xuất sắc nhất. Một đĩa DVD dài 95 phút tên là Mystery of the Sphinx: Expanded Edition được phát hành vào năm 2007. Age Of The Sphinx, một bộ phim tài liệu thuộc sê ri Timewatch trên kênh BBC Two về những giả thuyết của John Anthony West đã được lên sóng vào ngày 27 tháng 11 năm 1994.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tượng Nhân sư lớn ở Giza** ( , ), thường được biết đến với tên gọi **tượng Nhân sư**, là một bức tượng làm bằng đá vôi hình một con nhân sư (một sinh vật
nhỏ|phải|Tượng Nhân sư nhỏ|phải|[[Tượng Nhân sư lớn ở Giza, với Kim tự tháp Khafre ở phía sau]] **Nhân sư** là một nhân vật động vật thần thoại được thể hiện như một con sư tử
thumb|Schoch tại Thổ Nhĩ Kỳ năm 2014. **Robert M. Schoch** là phó giáo sư người Mỹ về Khoa học Tự nhiên tại Trường Tổng hợp, Đại học Boston. Kể từ năm 1991, Schoch là người
**Quần thể kim tự tháp Giza** (, "các kim tự tháp Giza") là một địa điểm khảo cổ ở bình nguyên Giza, Giza, ngoại ô thủ đô Cairo, Ai Cập. Quần thể các di tích
**Userkaf** (được biết đến trong Tiếng Hy Lạp cổ đại như là **Usercherês**, **Ούσερχέρης**) là một pharaoh Ai Cập, ông là người sáng lập ra Vương triều thứ 5, ông trị vì từ 7 tới
**Giza** ( ) là thành phố lớn thứ ba ở Ai Cập. Nó nằm trên bờ phía tây của sông Nile, khoảng 20 km về phía tây nam của trung tâm Cairo. Cùng với Shubra El-Kheima,
**Thutmosis IV** (hay **Thutmose IV** hoặc **Tuthmosis IV**, có nghĩa là "thần Thoth sinh ra"), là vị pharaon thứ tám của Vương triều thứ 18 của Ai Cập. Tên prenomen hay tên hoàng gia của
**Giả thuyết người Ai Cập Da đen** là giả thuyết cho rằng Ai Cập cổ đại là một nền văn minh phần lớn là người Da đen, vì thuật ngữ này hiện được hiểu theo
**Đại Kim tự tháp Giza** là Kim tự tháp Ai Cập lớn nhất và là lăng mộ của Vương triều thứ Tư của pha-ra-ông Khufu. Được xây dựng vào đầu thế kỷ 26 trước Công
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Lịch sử thế giới** (còn gọi là **lịch sử loài người** và **lịch sử nhân loại**) là ghi chép về hành trình phát triển của nhân loại từ thời tiền sử cho đến hiện tại.
Quyết định của chính phủ Dubai là đa dạng hóa từ một nền kinh tế dựa trên thương mại vốn phụ thuộc vào dầu mỏ sang một nền kinh tế dịch vụ và du lịch
**Khufu** ( ; thường được biết đến theo cách gọi ở Hy Lạp cổ đại là **Cheops** hay **Kheops**; tên đầy đủ là **Khnum Khufu** ) là một vị pharaon của vương triều thứ Tư
**Kim tự tháp Khafre**, là kim tự tháp lớn thứ hai trong quần thể kim tự tháp tại Giza. Đây là nơi chôn cất của Khafre, vị pharaon thứ 4 thuộc Vương triều thứ Tư
Bảy kì quan thế giới cổ đại **Bảy kì quan thế giới cổ đại** là một danh sách được nhiều người biết đến liệt kê các công trình kiến trúc và điêu khắc trong thời
**Ṣalāḥ ad-Dīn Yūsuf ibn Ayyūb** (, Ṣalāḥ ad-Dīn Yūsuf ibn Ayyūb, Tiếng Kurd: سه‌لاحه‌دین ئه‌یوبی, Selah'edînê Eyubî) (1137/1138 – 4 tháng 3 năm 1193), tên thường gọi trong các tài liệu phương Tây là **Saladin**,
**Khafra** (còn được gọi là **Khafre**, **Khefren** và **Chephren**) là một vị vua Ai Cập cổ đại (pharaon) của vương triều thứ 4 thuộc thời kỳ Cổ vương quốc. Ông là con trai của vua
**Giờ Trái Đất** (tiếng Anh: _Earth Hour_) là một phong trào toàn cầu do Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) tổ chức. Sự kiện này được tổ chức hàng năm, khuyến
**Kiến trúc sư** (chữ Hán: 建筑师; bính âm: _Jiànzhúshī_; phiên âm: _kiến trúc sư_; tạm dịch: _người thầy có chuyên môn kỹ thuật và thẩm mỹ về kiến tạo cấu trúc_) là người thông qua
**_Những kẻ thống trị_** (tên gốc tiếng Anh: **_Jumper_**) là một phim khoa học viễn tưởng hành động của Mỹ năm 2008 chủ yếu dựa trên nguyên tác tiểu thuyết _Jumper_ ra mắt năm 1992
**Reinhold Schmidt** (1897–1974) là một người Mỹ gốc Đức tự nhận có tiếp xúc với UFO vào năm 1957 trong thời đại liên lạc UFO của thập niên 1950 khởi đầu với George Adamski vào
Quang cảnh các kim tự tháp Giza nhìn từ cao nguyên phía nam khu tổ hợp. Từ trái sang phải: [[Kim tự tháp Menkaure, Kim tự tháp Khafre và Kim tự tháp Khufu. 3 kim
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|510x510px|Vị trí của Cổ vương quốc
Cổ Vương quốc Ai Cập (khoảng năm 2686 TCN - khoảng năm 2181 TCN), lãnh
**Menkaure**, hay **Menkaura** hoặc _Men-Kau-Re_ (còn gọi là **Mykerinus** theo tiếng Latin, **Mykerinos** theo tiếng Hy Lạp và **Menkheres** theo Manetho), là một vị pharaon của Vương triều thứ 4 thuộc thời kì Cổ vương
nhỏ|[[Bảy kỳ quan thế giới cổ đại|Bảy Kỳ quan thế Giới Cổ đại (từ trái sang phải, từ trên xuống dưới): Kim tự tháp Kheops, Vườn treo Babylon, Đền thờ thần Artemis ở Ephesus, Tượng
phải|Trang trí trần trong sảnh chính của Medinet habu Nhà nước Ai Cập cổ đại là một trong những nhà nước ra đời sớm nhất ở lưu vực sông Nin (Nile) vùng đông bắc châu
"**What I’ve Done**" là một bài hát của ban nhạc rock người Mỹ Linkin Park. Nó được phát hành làm đĩa đơn đầu tiên cũng như là bài hát thứ 6 trong album phòng thu
Một nông dân [[Ai Cập cổ đại|Ai Cập cổ đang cày ruộng bằng cày có bò kéo]] nhỏ|300x300px|[[Ai Cập cổ đại là một ví dụ điển hình của một nền văn hóa sơ khai được
**Người**, **con người**, **loài người** hay **nhân loại** (danh pháp khoa học: **_Homo sapiens_** hay **_Homo sapiens sapiens_**, nghĩa đen: **người tinh khôn**) là loài linh trưởng đông đảo và lan rộng nhất. Người có
**Pedro II** (tiếng Anh: _Peter II_; 02 tháng 12 năm 1825 - 5 tháng 12 năm 1891), có biệt danh là "**Người cao thượng**", là vị hoàng đế thứ 2 và cuối cùng của Đế
**Thiên kiến xác nhận** (còn gọi là **thiên kiến (thiên lệch) khẳng định**) là một khuynh hướng của con người ưa chuộng những thông tin nào xác nhận các niềm tin hoặc giả thuyết của
nhỏ|Đá hoa cương ở [[Vườn Quốc gia Yosemite, thung lũng sông Merced]] **Đá hoa cương**, còn gọi là **đá granit** (còn được viết là **gra-nít**, **gờ-ra-nít**, bắt nguồn từ từ tiếng Pháp _granite_ /ɡʁanit/), là
**Neferefre Isi** (còn được gọi là **Raneferef**, **Ranefer** và tên gọi theo tiếng Hy Lạp là Cherês, _Χέρης_) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư nhưng
thumb|Hiện tượng xói mòn do gió ở chân núi Chimborazo, [[Ecuador]] thumb|Tảng đá bị gọt đẽo bởi cát do gió thổi ở [[Arizona]] **Quá trình trầm tích gió** (eolian hay æolian) có liên quan đến
**Shepseskare** hoặc **Shepseskara** (có nghĩa là "Cao quý thay khi là linh hồn của Ra") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông có thể là vị vua thứ tư hoặc thứ năm của
Đây là danh sách các nhà phát minh và các nhà khám phá Ý: ## A * Giovanni Agusta (1879–1927), nhà hàng không tiên phong, nhà phát minh phanh dù * Giovanni Battista Amici (1786–1863),
**_Callionymus sphinx_**, tên thông thường là **cá đàn lia nhân sư**, là một loài cá biển thuộc chi _Callionymus_ trong họ Cá đàn lia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1984.
phải|nhỏ|Các [[kim tự tháp Ai Cập ở quần thể kim tự tháp Giza, nhìn từ trên không. Quần thể này được xây dựng vào khoảng năm 2600 TCN.]] phải|nhỏ|Đền Prasat Thom ở [[Koh Ker, Campuchia]]
nhỏ|phải|Họa phẩm của John Collier năm 1883 về các tỳ nữ của Pharaoh nhỏ|phải|Biểu tượng hoa văn của Ai Cập **Ai Cập cổ đại** dưới góc nhìn của thế giới phương Tây (_Ancient Egypt in
thumb|Chân dung Flinders Petrie do [[Philip de László|Philip Alexius de Laszlo vẽ năm 1934]] thumb|Đồ gốm Ai Cập sơn đỉnh màu đen đặc biệt của thời kỳ tiền vương triều gắn với hệ thống xác
**Neferirkare Kakai** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là Nefercherês, Νεφερχέρης) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ ba của vương triều thứ Năm. Neferirkare là con trai
**Sahure** (có nghĩa là "Ngài là người gần gũi với Re") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông còn là vị vua thứ hai của vương triều thứ năm và đã cai trị
**Nyuserre Ini** (còn được viết là **Neuserre Ini** hay **Niuserre Ini**, và đôi khi là **Nyuserra**; trong tiếng Hy Lạp tên của ông được gọi là Rathoris, _Ραθούρης_), là một pharaon của Ai Cập cổ
**Menkauhor Kaiu** (còn được gọi là **Ikauhor**, tiếng Hy Lạp cổ là **Mencherês**, Μεγχερῆς) là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc thời kỳ Cổ vương quốc. Ông là vị vua thứ bảy
(sinh ngày 28 tháng 10 năm 1982) là một ca sĩ, nhạc sĩ, vũ công và người mẫu người Nhật Bản. Tên thật của cô là Aono Mai (青野 真衣). Cha cô là nhà đạo
**Sneferu** (cũng còn gọi là **Snefru** hoặc **Snofru**), còn được biết đến với tên **Soris** theo tiếng Hy Lạp (bởi Manetho), là vị vua đã sáng lập nên vương triều thứ 4 thuộc thời kỳ
nhỏ|261x261px|Từ trái qua phải lần lượt là lăng mộ của [[Djoser, Unas, Userkaf]] **Saqqara** (Tiếng Ả Rập: سقارة), còn được viết là **Sakkara** hay **Saccara**, là một khu nghĩa trang của người Ai Cập cổ
thumb|right|Bức tranh tường thuộc giai đoạn đầu [[Vương triều thứ Mười Chín của Ai Cập|thời đại Ramesses từ ngôi mộ ở Deir el-Medina miêu tả một cặp vợ chồng người Ai Cập đang thu hoạch
phải|Hình ảnh của châu Phi chụp từ vệ tinh **Châu Phi** hay **Phi châu** (_l'Afrique_, _Africa_) là châu lục đứng thứ hai trên thế giới về dân số (sau châu Á), thứ ba về diện