Trấn thủ lưu đồn (chính tả cũ: Trấn-thủ lưu-đồn) là nhan đề do hậu thế đặt cho một bài ca dao trung đại Việt Nam.
Lịch sử
Nguyên ủy Trấn thủ lưu đồn cùng với Con đĩ đánh bồng, Phụng mệnh quân vương là nhóm huyền ca được tác giả khuyết danh soạn với mục đích diễn xướng (gồm ngâm và vũ). Tuy nhiên, tới nay chưa đoán định được bản Hán văn xuất hiện trước hay sau bản diễn Nôm. Mà theo một truyền thuyết chưa được kiểm chứng (có khả năng chỉ là mạo xưng ở hậu kỳ hiện đại), Lưu Đồn là một thôn ở nơi ngày nay thuộc xã Hồng Dũng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, là địa điểm phát xuất bài ca dao này, có liên đới thần tích tướng quân Nguyễn Phúc Hiền (?) thời Trần.
Lời ca gồm rất nhiều dị bản, nhưng tựu trung đều theo thể lục bát và bản nào cũng tương đối ngắn. Tới đầu thế kỷ XX, các soạn giả Quốc văn giáo khoa thư đã gia công bổ chính và đưa vào chương trình học đánh vần của lớp ấu nhi. Nhờ thế, văn bản này theo các thế hệ học Quốc văn giáo khoa thư trở nên phổ biến trên truyền thông đại chúng và được coi là chuẩn mực trong tất cả các bản Trấn thủ lưu đồn về sau.
Thập niên 1940, trong không khí tân nhạc đặc biệt sôi động, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã dựa theo làn điệu chèo để phổ nhạc mới cho hai bản Trấn thủ lưu đồn và Phụng mệnh quân vương dưới hình thức một vở ca kịch (đương thời gọi huyền ca). Mặc dù văn bản nhạc này tới nay đã thất truyền, nhưng trong các thập niên sau, Trấn thủ lưu đồn và Phụng mệnh quân vương thường được hiểu là hoạt cảnh ca nhạc Trấn thủ lưu đồn. Ca kịch này đem lại danh vọng cho nghệ sĩ Hoàng Thư - thường được coi là kịch sĩ đầu tiên diễn vở Trấn thủ lưu đồn.
Tới thập niên 1960, khi thị trường băng nhạc ngày càng phổ cập và được chuộng tại Việt Nam Cộng hòa, cũng là hưởng ứng phong trào chấn hưng văn hóa do chính phủ phát động, nhạc sĩ Phạm Duy đã soạn lại Trấn thủ lưu đồn theo nhịp đuổi, trở thành một tích trò rất ăn khách ở các đại nhạc hội và vũ trường, đặc biệt qua giọng ban AVT. Đặc điểm bài này khi kết hợp làn điệu truyền thống là ca sĩ phải thể hiện nhanh, nhịp nhàng sau cho không vấp. Thông thường, khi hát đúng chữ tròn nét thì lời ca rất vang và sang trọng, nhưng khi bị vấp thì vần câu trước nối vần câu sau thành từ tục tĩu, gợi các động tác tình dục và bộ phận cơ thể kín rất nhạy cảm. Nên đôi khi bài Trấn thủ lưu đồn của Phạm Duy được xếp vào tục ca và tương đối khó hát. Tỉ dụ: thanh-lịch, hữu-tình, lưu-đồn, trấn-thủ, muối-đổ, trên-đời...
Năm 1978, trong chương trình văn nghệ mừng Tết Nguyên Đán tại Nam California, các nghệ sĩ Việt Nam Cộng hòa lưu vong đã tái diễn vở Trấn thủ lưu đồn và thâu băng. Theo hồi ức của nhạc sĩ Nam Lộc, do ban AVT chỉ có danh ca Lữ Liên sang Mỹ được nên Nam Lộc là một trong hai ca sĩ được vá vào nhằm diễn trọn vẹn kịch mục này.
Nội dung
Bài ca dao hàm chứa tâm sự của anh lính thú đời xưa phải xa nhà mấy năm, trong lúc thi hành công vụ thì bỗng đổ nhớ vợ thương con ở quê nghèo, thấm thía nỗi cô đơn cực nhọc giữa miền rừng thiêng nước độc.
-
Phần 1: Lúc ra đi
-
Phần 2: Khi đóng đồn
Bài Trấn thủ lưu đồn của nhạc sĩ Phạm Duy có lời như sau:
Văn hóa
Do được soạn với mục đích diễn sân khấu chèo nên Trấn thủ lưu đồn là nhạc phẩm tương đối khó thể hiện đối với người không qua luyện thanh bài bản. Khi đưa vào chương trình giáo khoa tại tam kỳ Liên bang Đông Dương và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thập niên 1960, bài ca dao có tác dụng cải thiện lối phát âm của trẻ nhỏ mới biết nhận mặt chữ, đồng thời rèn khả năng nhớ từ và phân biệt các vần trong câu.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trấn thủ lưu đồn** (chính tả cũ: _Trấn-thủ lưu-đồn_) là nhan đề do hậu thế đặt cho một bài ca dao trung đại Việt Nam. ## Lịch sử Nguyên ủy _Trấn thủ lưu đồn_ cùng
**Trần Thu Hà** (sinh ngày 26 tháng 8 năm 1977), còn được biết đến với nghệ danh **Hà Trần**, là một nữ ca sĩ kiêm nhà sản xuất nhạc người Việt Nam. Nổi tiếng với
**Trần Thủ Độ** (chữ Hán: 陳守度, 1194 – 1264), cũng gọi **Trung Vũ đại vương** (忠武大王), là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử
**Trấn** **Thủ** (chữ Hán: 鎮守 - tiếng Anh: Defense Command Governor) là vị quan văn đứng đầu một trấn trong các triều đại Việt nam. Tùy theo sự phân cấp hành chính từng thời kỳ
**Nghị định thư Luân Đôn** của ngày 3 Tháng 2 năm 1830 là một thỏa thuận giữa ba đại cường quốc (Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland, Vương quốc Pháp và Đế quốc Nga),
**Hán Chiêu Liệt Đế** (漢昭烈帝), hay **Hán Tiên chủ**, **Hán Liệt Tổ**, tên thật là **Lưu Bị** (, ; ; 161 – 10 tháng 6 năm 223), tự là **Huyền Đức,** là Hoàng đế khai
nhỏ|Bình xăng có ngăn tràn thứ cấp Ngăn **tràn thứ cấp** là ngăn chứa những chất lỏng nguy hiểm nhằm ngăn chặn ô nhiễm đất và nước. Các kỹ thuật hay sử dụng bao gồm
**Trận Hồng Cúm**, từ ngày 31 tháng 3 đến 7 tháng 5 năm 1954, là trận đánh quan trọng của chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Trận Peleliu** có mật danh là **Chiến dịch Stalemate II** là một trận chiến giữa quân đội Hoa Kỳ và Nhật Bản trong chiến tranh Thái Bình Dương, Thế chiến thứ 2 diễn ra từ
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
nhỏ|400x400px| Các kỳ thủ chuyên nghiệp [[Habu Yoshiharu Danh Nhân (thứ nhất từ trái sang) và Watanabe Akira Nhị quán (thứ tư từ trái sang) tại trận Chung kết Giải vô địch Toàn Nhật Bản
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Trận đồi C1**, mở màn ngày 31 tháng 3 năm 1954, là một trong những trận đánh quan trọng trong giai đoạn 2 và 3 của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của Quân
**Lưu Miễn** (chữ Hán: 刘勔; 刘勉 , 418 – 474), hay **Lưu Mẫn**, tự Bá Du, người Bành Thành , tướng lãnh nhà Lưu Tống. ## Thân thế Miễn là hậu duệ của học giả
**Trận Stalingrad** (23 tháng 8 năm 19422 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân
**Trận vòng cung Kursk** (lịch sử Nga gọi là **_Chiến dịch phòng ngự - phản công Kursk_**) là một trong những chiến dịch lớn nhất trên chiến trường Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Luân Đôn** (; ) là thủ đô kiêm thành phố lớn nhất của Anh (England) và của cả Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (UK). Luân Đôn được người La Mã lập ra
**Trận Di Lăng** (chữ Hán: 夷陵之戰 _Di Lăng chi chiến_) hay còn gọi là **trận Khiêu Đình** (猇亭之戰 _Khiêu Đình chi chiến_) hoặc **trận Hào Đình**, là trận chiến giữa nước Thục Hán và nước
**Trận Đồng Quan** hay **Chiến dịch Đồng Quan** (chữ Hán: 潼關之戰 _Đồng Quan chi chiến_) là trận đánh chiến lược diễn ra giữa quân đội triều đình trung ương nhà Đông Hán do thừa tướng
**Trận Verdun** là một trận lớn chính của mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trận đánh nổ ra giữa quân đội Đức và Pháp từ 21 tháng 2 đến 19
**Trận Waterloo** (phiên âm tiếng Việt: **Oa-téc-lô**) là trận chiến diễn ra vào ngày Chủ nhật 18 tháng 6 năm 1815, gần Waterloo, thuộc Bỉ. Quân Pháp dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Napoleon
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Trận đồi Độc Lập** là trận đánh diễn ra tại ngọn đồi cùng tên trong giai đoạn 1 của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là trận đánh thứ hai của chiến dịch, diễn ra
**Trận Raseiniai** (23–27 tháng 6 năm 1941) là một trận đấu xe tăng diễn ra giữa Tập đoàn quân thiết giáp số 4 của quân phát xít Đức với hai Quân đoàn cơ giới của
**Trận Hán Trung 217-219** là trận chiến tranh giành quyền kiểm soát khu vực Đông Xuyên thời Tam Quốc giữa hai thế lực Ngụy vương Tào Tháo và Lưu Bị, không lâu trước khi hai
Thủ đô Bắc Kinh, Trung Quốc được chia ra thành các đơn vị hành chính sau: * 16 đơn vị cấp huyện ** 6 khu (quận) nội thành ** 6 khu (quận) ngoại thành **
**Chiến tranh Punic lần thứ hai**, cũng còn được gọi là **Chiến tranh Hannibal**, (bởi những người La Mã) **Cuộc chiến tranh chống lại Hannibal**, hoặc **Chiến tranh Carthage**, kéo dài từ năm 218 đến
**Trận Bạch Giang**, cũng được gọi là **Trận Baekgang** hay **Trận Hakusukinoe**, xảy ra ngày 28 tháng 8 năm 663 tại Sông Bạch Giang (nay Sông Geum, Hàn Quốc). Trận này liên quan liên minh
**Trận Phì Thủy** (Phì Thủy chi chiến: 淝水之戰) là trận đánh nổi tiếng năm 383 thời Đông Tấn - Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa quân Tiền Tần và quân
**Trận Trường Bản** là trận đánh diễn ra năm 208 thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc, giữa hai thế lực quân phiệt Lưu Bị và Tào Tháo. Trận đánh cũng được đề cập
**Trận Manila** diễn ra từ ngày 3 tháng 2 đến 3 tháng 3 năm 1945, giữa quân đội Hoa Kỳ, Thịnh vượng chung Philippines và quân đội Nhật Bản là một phần của Chiến dịch
**Trận Hy Lạp** (hay còn gọi là **Chiến dịch Marita**, ) là tên thường gọi cuộc tiến công chinh phục Hy Lạp của nước Đức Quốc xã vào tháng 4 năm 1941. Phía Hy Lạp
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**Trận Tương Dương – Phàn Thành** là trận chiến thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa phe Lưu Bị (người sáng lập nước Thục Hán) và Tào Tháo (người sáng lập nước Tào
**Trần Tuyên Đế** (chữ Hán: 陳宣帝, 530–582), tên húy là **Trần Húc** (), hay **Trần Đàm Húc** (陳曇頊), tên tự **Thiệu Thế** (紹世), tiểu tự **Sư Lợi** (師利), là một hoàng đế của triều Trần
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Trần Tự Khánh** (chữ Hán: 陳嗣慶;1175 – 3 tháng 1 năm 1224), là một chính trị gia, viên tướng trứ danh thời kỳ suy vong của triều đại nhà Lý, người lãnh đạo chính thống
Quân Đức diễn hành tại Paris **Mặt trận phía tây** của chiến trường châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai bao gồm các trận chiến trên lãnh thổ của Đan Mạch, Na Uy,
**Trận Bắc Ninh** hay **Trận Pháp đánh thành Bắc Ninh** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ ngày 7 tháng 3 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng
**Trận Quan Độ** là trận đánh diễn ra trong lịch sử Trung Quốc vào năm 200 tại Quan Độ thuộc bờ nam Hoàng Hà giữa Tào Tháo và Viên Thiệu – 2 thế lực quân
**Don Quijote** (tiếng Tây Ban Nha: _Don Quixote de la Mancha_ / **Don Quijote xứ Mancha**) hay đôi khi được phiên âm thành **Đôn Ki-hô-tê** hoặc **Đông Ki-xốt** , là tiểu thuyết của văn sĩ
**Trần Thiêm Bình** (陳添平, ? – 1406) hoặc **Trần Thiên Bình** (陳天平) ## Cầu viện nhà Minh Đến năm 1400, nhân sự kiện Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần-Đại Việt, lập ra
**Trận Lenino** diễn ra trên lãnh thổ của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia từ ngày 12 đến ngày 13 tháng 10 năm 1943 là một sự phát triển sau Chiến dịch
**Hành chính Việt Nam thời Trần** hoàn thiện hơn so với thời Lý. Sau khi giành được chính quyền, nhà Trần đã phân chia lại Đại Việt thành 12 lộ thay vì 24 lộ như
**Trận Kiev năm 1941** là trận công kích lớn thứ ba của Đức Quốc Xã vào mặt trận Tây Nam của Hồng quân Liên Xô (ngả qua Urkraina) trong Chiến dịch Barbarossa, sau Trận Dubno
**Trận Hán Trung** diễn ra năm 215 là trận chiến tranh giành quyền kiểm soát khu vực Đông Xuyên thời Tam Quốc giữa hai quân phiệt Tào Tháo và Trương Lỗ. Kết quả Tào Tháo
**Thư Cừ Vô Húy** () (?-444) được một số sử gia nhìn nhận là một người cai trị của nước Bắc Lương. Sau khi phần lớn lãnh thổ của Bắc Lương rơi vào tay Bắc
**Trần Ai công** (chữ Hán: 陳哀公; trị vì: 568 TCN-534 TCN), tên thật là **Quy Nhược** (媯弱), là vị vua thứ 22 của nước Trần – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.