✨Trận Lepanto
Trận Lepanto (Tiếng Hy Lạp: Ναύπακτος, Naupaktos, pron. Náfpaktos; colloquial tiếng Hy Lạp: Έπαχτος, Épahtos; ) là trận hải chiến diễn ra ngày 7 tháng 10 năm 1571 khi hạm đội Liên minh thần thánh (1571) do Giáo hoàng Piô V (1566 – 1572) thành lập, một liên minh bao gồm nước Cộng hòa Venezia, vương quốc Tây Ban Nha (lúc đó bao gồm cả Napoli, Sicilia và Sardinia), Quốc gia Giáo hoàng, nước Cộng hòa Genova, Công quốc Savoie, Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta cùng một số đồng minh khác đánh hạm đội Đế chế Ottoman đại bại.
Trận kịch chiến kéo dài 5 giờ đồng hồ ở phần phía bắc của Vịnh Patras, nằm ở phía tây Hy Lạp, nơi lực lượng Ottoman, đang thực hiện cuộc hải hành từ căn cứ hải quân tại Lepanto giáp mặt hạm đội của Liên minh Thần thánh, khởi hành từ Messina. Chiến thắng này mang lại quyền kiểm soát tạm thời biển Địa Trung Hải cho Liên minh, bảo vệ Roma khỏi nguy cơ xâm lược, đồng thời ngăn cản bước tiến của Đế chế Ottoman vào sâu nội địa châu Âu. Trận hải chiến này cũng là trận đánh lớn cuối cùng giữa các chiến thuyền chèo dùng sức người, đồng thời cũng là trận chiến quyết định quan trọng nhất, vì "sau trận Lepanto quả cân xoay chiều, vận may chuyển từ Đông sang Tây, kéo dài cho tới tận ngày nay", và cũng vì "đây là 'bước ngoặt quyết định' trong cuộc chiến kéo dài giữa Trung Đông và châu Âu, cho tới giờ vẫn còn chưa ngã ngũ".
Lực lượng hai bên
Hạm đội Liên minh gồm 206 chiến thuyền galley và 6 chiến thuyền galleasses (nguyên là các thuyền thương buôn galley loại lớn, được cải tiến để mang một số lớn đại bác), được chỉ huy bởi thủ lĩnh đầy năng lực Don Juan nước Áo, con ngoài giá thú của hoàng đế Karl V (1519 – 1556), anh em cùng cha khác mẹ vua Felipe II của Tây Ban Nha (1556 – 1598). Các chiến thuyền đến từ khắp các quốc gia Ki-tô giáo: 109 galley và 6 galleasses từ Venezia, 80 galley Tây Ban Nha và Napoli/Sicilia, 12 galley từ Tuscan, do Giáo hoàng bỏ tiền ra thuê, từ Genova, Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta, Công quốc Savoie mỗi xứ 3 galley, cùng với một số galley sở hữu bởi những cá nhân khác. Tất cả thành viên Liên minh đều coi hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ là mối hiểm họa nghiêm trọng cho an ninh và thương mại trên biển Địa Trung Hải, và cho cả an ninh của toàn lục địa châu Âu. Các cánh quân riêng lẻ của Liên minh hội quân với hạm đội chính của Liên minh, thuộc Venezia (dưới quyền chỉ huy của Sebastiano Venier), trong tháng 7 và tháng 8 tại Messina, Sicilia. Tới ngày 23 tháng 8 Don Juan nước Áo cũng có mặt.
Hạm đội của Liên minh Ki-tô giáo bao gồm 12.000 thủy thủ, thêm vào đó, hạm đội chở gần 28 ngàn quân chiến đấu, trong đó gồm có 10 ngàn quân bộ binh tinh nhuệ Tây Ban Nha, 7 ngàn quân Đức và 6 ngàn quân Ý (quân đánh thuê), cộng với 5 ngàn quân Venezia. Cũng phải nói thêm là các thủy thủ chèo thuyền của Venezia hầu hết đều là công dân tự do, nên họ mang theo vũ khí và như vậy làm tăng thêm sức mạnh chiến đấu của chiến thuyền, khác với các galley của các thành viên khác trong Liên minh sử dụng nô lệ và tù phạm để chèo thuyền. Các galley của hạm đội Thổ cũng dùng nô lệ để chèo thuyền, phần lớn trong số đó là những người Ki-tô giáo bị bắt trong các cuộc chinh phạt hay giao tranh trước đó. Người ta đều biết rằng công dân tự do chèo thuyền có chất lượng vượt trội, nhưng dần dần tất cả các hạm đội chiến thuyền galley (kể cả các hạm đội của Venezia kể từ năm 1549) trong thế kỷ 16 đều chuyển sang dùng nô lệ hoặc tù binh chiến tranh cho rẻ hơn
Các galley của phe Ottoman gồm 13.000 thủy binh và 34.000 binh lính. Đô đốc Muezzinzade Ali Pasha (Tiếng Thổ: "Kaptan-ı Derya Ali Paşa"), được sự hỗ trợ của tướng cướp biển Chulouk Bey từ Alexandria và Uluj Ali (Ulich Ali), chỉ huy hạm đội Ottoman gồm 222 chiến thuyền galley, 56 galliot (galley loại nhỏ, độc mộc, đáy bằng), và một số thuyền nhỏ. Quân Thổ có thủy thủ đoàn dày dặn kinh nghiệm và lành nghề, nhưng hàng ngũ họ thiếu các đội Cấm vệ quân tinh nhuệ Janissary.
Một lợi thế quan trọng, có lẽ mang tính quyết định cho hạm đội Liên minh là họ có ưu thế vượt trội về số lượng súng đại bác. Theo ước tính, họ có chừng 1.815 đại bác, so với chừng 750 đại bác của quân Thổ, và còn thiếu đạn dược. Tây Ban Nha từ 3 galley tràn lên mạn thuyền giáp chiến với Cấm vệ quân Janissary Thổ từ 7 galley khác. Hai lần liền, quân Tây Ban Nha bị đẩy lùi và bị tổn thất nặng nề, cho tới lần thứ ba, với viện binh từ galley của Álvaro, họ mới giành được chiến thắng. Muezzinzade Ali Pasha bị giết chết và bị chặt đầu, trái với mệnh lệnh của Don Juan. Tuy nhiên, khi đầu ông bị bêu trên ngọn kích trên kỳ hạm của quân Tây Ban Nha thì nó làm tinh thần quân Thổ suy sụp nghiêm trọng. Dù vậy, sau khi kết cục trận chiến đã trở nên rõ ràng, các toán quân Janissary vẫn tiếp tục giao chiến kịch liệt, thậm chí khi không còn vũ khí, họ ném cả dưa và cam vào quân Ki-tô giáo, gây nên những cảnh tức cười trong cuộc chém giết tàn bạo Mặc dù giành được chiến thắng oanh liệt, nhưng nội bộ Liên minh quá mất đoàn kết để có thể phát huy chiến quả. Kế hoạch đánh chiếm eo biển Dardanelles như một bước khởi đầu cuộc tái chinh phục Constantinopolis cho thế giới Ki-tô giáo bị bỏ bê vì những cuộc cãi vã trong hàng ngũ đồng minh. Với một nỗ lực phi thường và nguồn nhân lực dồi dào Trong vòng 6 tháng, hạm đội mới gồm 250 thuyền (kể cả tám galleass) đã cho phép hải quân Ottoman tái lập thế thượng phong trên phần phía đông Địa Trung Hải. Ngày 7 tháng 3 năm 1573, người Venezia ký hiệp ước chấp nhận việc quân Thổ chiếm hữu đảo Síp, vốn đã rơi vào tay quân Thổ dưới quyền Piyale Pasha từ ngày 3 tháng 8 năm 1571, chỉ hai tháng trước trận Lepanto, và sẽ còn nằm dưới ách thống trị của Thổ trong vòng 3 thế kỷ tiếp đó. Cũng trong mùa hè năm đó, hạm đội Ottoman tàn phá các vùng đất ven biển Sicilia và phía nam nước Ý. Khi tiếp sứ Venezia là Barbaro, Đại Vizia Thổ là Sokollu Mehmet Pasha (1565-1579) đã có câu nói nổi tiếng: "Khi giành được đảo Síp, ta chặt đi một cánh tay của các ngươi; khi đánh bại được hạm đội của ta, các người chỉ xén đi được bộ râu của ta mà thôi. Khi cánh tay bị chặt đi, nó không thể mọc lại được, một bộ râu bị xén sẽ mọc lại còn tốt hơn trước."
Dù mạnh miệng tuyên bố, nhưng trên thực tế, tổn thất của phía Ottoman hết sức nghiêm trọng có tầm vóc chiến lược. Họ có thể xây thêm thuyền chiến dễ dàng, Cuối cùng, người ta phải sử dụng một số lớn tù phạm để thế chỗ cho những nô lệ Ki-tô giáo được giải thoát sau trận đánh. Song, nhà quý tộc Áo là Khevenhüller đã tỏ thái độ thất vọng qua nhật ký của ông, bởi vì chiến thắng Lepanto không thể đem lại một tấc đất nào cho Ki-tô giáo.
Như vậy, chiến thắng của Liên minh có ý nghĩa quan trọng chiến lược, không phải chỉ vì quân Thổ mất 80 chiến thuyền bị đánh đắm và 130 chiến thuyền khác rơi vào tay quân đồng minh, cũng như mất 30 ngàn quân tử trận và chừng 12 ngàn nô lệ Ki-tô giáo được giải phóng, trong khi quân đồng minh chỉ mất chừng 7500 người chết và 17 galley, mà vì chiến thắng này báo hiệu sự kết thúc của quyền bá chủ của hải quân Thổ Nhĩ Kỳ trên biển Địa Trung Hải.
Ý nghĩa tôn giáo
Liên minh Thần thánh cho chiến thắng này là nhờ vào Đức Mẹ Đồng Trinh Maria, do Đức mẹ cầu nguyện Thiên Chúa ban cho họ chiến thắng. Andrea Doria có một bản copy của bức tranh Đức Mẹ Guadalupe do vua Felipe II của Tây Ban Nha ban cho ông trong phòng chính của chiến hạm. Giáo hoàng Piô V dành một ngày lễ mới cho Kitô hữu gọi là ngày Đức Mẹ Chiến Thắng để ghi nhớ trận đánh, ngày nay được gọi là Đức Mẹ Mân Côi.
Trận đánh thể hiện trên tranh ảnh và tác phẩm nghệ thuật
Trận Lepanto 1571, tranh khắc của [[Martin Rota ]] Tầm quan trọng của trận Lepanto là nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ. Có rất nhiều bức tranh thể hiện trận đánh, bao gồm cả hai bức ở lâu đài Thống đốc tại Venezia: do Paolo Veronese (ở trên) trong Sala del Collegio và bởi Andrea Vicentino trên tường của Sala dello Scrutinio, thay thế cho bức Chiến thắng Lepanto của Tintoretto, bị mất trong trận cháy năm 1577. Titian cũng có bức Allegory of the Battle of Lepanto, sử dụng trận đánh như khung cảnh nền, treo trong Viện bảo tàng Prado tại Madrid.
Nhà thơ G. K. Chesterton người Anh viết bài thơ Lepanto, xuất bản lần đầu năm 1911 và được tái bản nhiều lần. Trong đó, mô tả một loạt nhân vật chính của trận đánh, đặc biệt là thủ lĩnh của phía Ki-tô giáo, Don Juan nước Áo. Bài thơ kết thúc với vần thơ liên tưởng đến Miguel de Cervantes, người đã chiến đấu trong trận chiến này, như một "hiệp sĩ gầy gò và khờ dại", người sẽ trở thành bất tử với tác phẩm Don Quixote của ông.