✨Thực quản
Thực quản () là cơ quan ở động vật có xương sống có chức năng đưa thức ăn từ hầu xuống dạ dày nhờ nhu động. Thực quản hình ống, ở người lớn dài , ở phía sau khí quản và tim, đi qua cơ hoành và đổ vào vùng trên cùng của dạ dày. Trong quá trình nuốt, nắp thanh quản nghiêng về phía sau để ngăn thức ăn đi xuống thanh quản và phổi. Trong tiếng Anh, từ oesophagus xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại οἰσοφάγος (oisophágos), trong đó: οἴσω (oísō) là dạng tương lai của φέρω (phérō, "tôi mang") + ἔφαγον (éphagon, "tôi đã ăn").
Từ lòng ống ra ngoài, thành thực quản cấu tạo bởi niêm mạc, lớp dưới niêm mạc (mô liên kết), các lớp sợi cơ nằm giữa lớp mô sợi và một lớp mô liên kết bên ngoài. Niêm mạc là biểu mô lát tầng không sừng hóa, có khoảng ba lớp tế bào, tương phản với biểu mô trụ đơn của dạ dày. Vùng ranh giới giữa hai loại biểu mô này giống như một đường zig-zag. Cơ ở thực quản phần lớn là cơ trơn, ở 1/3 trên của thực quản cơ vân chiếm ưu thế. Thành thực quản có hai cơ thắt: cơ thắt trên và dưới. Cơ thắt dưới giúp ngăn trào ngược acid trong dạ dày. Thực quản có nguồn cung cấp máu và dẫn máu dồi dào từ động mạch và tĩnh mạch. Cơ trơn của thực quản do thần kinh thực vật chi phối (thần kinh giao cảm qua thân giao cảm và thần kinh phó giao cảm qua thần kinh lang thang. Hệ thần kinh thân thể (neuron vận động dưới) cho phối một phần, đi cùng thần kinh lang thang để chi phối cơ vân.
Thực quản đi vào khoang ngực, xuyên qua cơ hoành vào dạ dày.
Một số tổn thương thực quản: trào ngược dạ dày thực quản, ung thư thực quản, giãn vỡ tĩnh mạch thực quản có thể chảy nhiều máu, rách, co thắt và rối loạn nhu động. Triệu chứng thường gặp: nuốt khó, nuốt đau, đau ngực hoặc không gây ra triệu chứng gì. Cận lâm sàng: chụp X-quang sau khi uống bari sulfat, nội soi và chụp cắt lớp vi tính. Ít chỉ định mổ thực quản.
Cấu trúc giải phẫu
Thực quản là cấu trúc giải phẫu thuộc phần trên hệ tiêu hóa. Phần trên có nhú vị giác. Thực quản bắt đầu ở phía sau miệng, đi xuống phần sau của trung thất, qua cơ hoành vào dạ dày. Ở người, thực quản thường bắt đầu ngang mức đốt sống cổ VI phía sau sụn nhẫn của khí quản, đi vào cơ hoành tại vị trí ngang mức đốt sống ngực 10, và kết thúc tại tâm vị của dạ dày ngang mức đốt sống ngực 11. Thực quản dài khoảng 25 cm (10 in).
Có nhiều mạch máu nuôi dưỡng thực quản, với lượng máu cung cấp có sự khác nhau theo từng đoạn. Phần trên thực quản và cơ thắt thực quản trên nhận máu từ động mạch giáp dưới. Phần thực quản trong lồng ngực nhận máu từ động mạch phế quản và các nhánh trực tiếp từ động mạch chủ ngực.Phần dưới thực quản và cơ thắt thực quản dưới nhận máu từ động mạch vị trái và động mạch hoành dưới trái. Tĩnh mạch có sự phân bố khác nhau dọc theo đường đi của thực quản. Phần trên và phần giữa thực quản máu đổ vào tĩnh mạch đơn và tĩnh mạch bán đơn, và phần dưới thực quản máu đổ vào tĩnh mạch vị trái. Tất cả các tĩnh mạch này đều đổ vào tĩnh mạch chủ trên, ngoại trừ tĩnh mạch vị trái đổ vào tĩnh mạch cửa.
- Ở phần bắt đầu của thực quản, nơi thanh quản nối với thực quản, nằm sau sụn nhẫn
- Nơi thực quản đi qua cung động mạch chủ trong trung thất trên
- Nơi thực quản đi qua phế quản chính bên trái ở trung thất sau
- Nơi thực quản đi qua lỗ thực quản của cơ hoành ở trung thất sau
Cơ thắt
Thực quản được bao quanh ở phía trên và phía dưới bởi hai cơ thắt, được gọi là cơ thắt thực quản trên và cơ thắt thực quản dưới.
Cơ thắt thực quản dưới hay còn gọi là cơ thắt dạ dày-thực quản bao quanh phần dưới của thực quản ở phần tiếp giáp giữa thực quản và dạ dày. Cơ này còn có tên gọi là cơ thắt tâm vị. Rối loạn cơ thắt dạ dày thực quản gây ra tình trạng trào ngược, ợ chua và nếu nó xảy ra thường xuyên có thể dẫn đến bệnh trào ngược dạ dày gây tổn thương niêm mạc thực quản.
Chi phối thần kinh
Thực quản được do thần kinh lang thang và thân giao cảm cổ và ngực chi phối. Thân giao cảm có chức năng giao cảm, tăng cường chức năng của thần kinh lang thang, tăng nhu động và hoạt động của tuyến, đồng thời gây co thắt cơ vòng. Ngoài ra, kích thích giao cảm có thể làm giãn thành thực quản và gây co thắt mạch máu. Màu hồng của niêm mạc thực quản có sự tương phản với màu đỏ đậm hơn của niêm mạc dạ dày, và vị trí chuyển tiếp của niêm mạc có thể được nhìn thấy tựa như đường zig-zag không đều, thường được gọi là đường z. Trên tiêu bản mô học quan sát được vị trí chuyển đổi đột ngột giữa biểu mô lát tầng của thực quản và biểu mô trụ đơn của dạ dày. Thông thường, tâm vị ở phía dưới đường z và đường z phù hợp với giới hạn trên của nếp gấp dạ dày tâm vị; tuy nhiên, khi cấu trúc giải phẫu của niêm mạc bị biến dạng trong bệnh cảnh thực quản Barrett, chỗ nối dạ dày-thực quản thực sự có thể được xác định bởi giới hạn trên của các nếp gấp của dạ dày chứ không phải là sự chuyển tiếp của niêm mạc. Vị trí chức năng của cơ thắt dưới thực quản thường nằm dưới đường z khoảng . Có hai loại tuyến, với tuyến thực quản tiết chất nhầy được tìm thấy ở lớp dưới niêm mạc và tuyến tim thực quản, tương tự như tuyến tim của dạ dày, nằm ở lớp đệm và thường gặp nhất ở phần cuối của cơ quan này. Chất nhờn từ các tuyến giúp bảo vệ tốt lớp niêm mạc. Lớp dưới niêm mạc cũng chứa đám rối dưới niêm mạc, một mạng lưới các tế bào thần kinh là một phần của hệ thống thần kinh ruột. Cơ phân bố theo 2 lớp: lớp cơ dọc (sợi cơ đi theo chiều dài thực quản) và lớp cơ vòng (sợ cơ đi theo chu vi ống thực quản). Xen giữa hai lớp này là đám rối thần kinh cơ ruột (đám rối Auerbach), một mạng lưới sợi thần kinh chi phối tiết dịch nhầy và sự co bóp cơ trơn theo nhu động của thực quản. Lớp ngoài cùng của hầu hết chiều dài thực quản là ngoại mạc, phần bụng của thực quản được thanh mạc bao phủ thêm. Cấu trúc này phân biệt các cấu trúc khác của ống tiêu hóa (chỉ được bao phủ bởi thanh mạc). Túi được bao quanh bởi mạng lưới động mạch noãn hoàng. Theo thời gian, những động mạch này hợp nhất thành ba động mạch chính đưa máu nuôi dưỡng cho đường tiêu hóa đang phát triển: động mạch thân tạng, động mạch mạc treo tràng trên và động mạch mạc treo tràng dưới. Ba động mạch nêu trên xác định mốc của ruột giữa, ruột sau và ruột trước.
Biểu hiện gen và protein
Khoảng 20.000 gen mã hóa protein biểu hiện trong tế bào người và gần 70% số gen này quy định đặc tính của một thực quản bình thường. Trong đó, khoảng 250 gen này đặc hiệu ở thực quản với ít hơn 50 gen có tính đặc hiệu cao. Các protein tương ứng dành riêng cho thực quản chủ yếu tham gia vào quá trình biệt hóa biểu mô lát tầng như keratin KRT13, KRT4 và KRT6C. Các protein đặc hiệu khác quy định chức năng bôi trơn mặt trong của thực quản bằng cách tiết chất nhầy (mucin) như MUC21 và MUC22.
Ý nghĩa lâm sàng
Viêm thực quản
nhỏ|200x200px|Loét thực quản quan sát dưới nội soi thực quản thể hiện bằng vết trợt màu đỏ hướng 10 giờ ở bề mặt niêm mạc Trào ngược dịch vị từ dạ dày, nhiễm trùng, hấp thu chất ăn mòn, một số loại thuốc (chẳng hạn như bisphosphonat), và dị ứng thực phẩm đều có thể dẫn đến viêm thực quản. Nấm Candida thực quản là một bệnh nhiễm trùng của nấm men Candida albicans có thể xảy ra khi một người bị suy giảm miễn dịch. , nguyên nhân của một số dạng viêm thực quản (chẳng hạn như viêm thực quản tăng bạch cầu ưa acid) vẫn chưa rõ. Viêm thực quản có thể gây nuốt đau và thường được điều trị bằng cách kiểm soát nguyên nhân gây viêm thực quản - chẳng hạn như kiểm soát trào ngược hoặc điều trị nhiễm trùng. Đó là một tổn thương dạng túi nhô ra bên ngoài tại thực quản. Tổn thương có thể xuất hiện bất cứ vị trí nào trong niêm mạc thực quản giữa hầu họng và dạ dày. Đây là bệnh lý hiếm gặp tỷ lệ mắc bệnh khoảng 0,015%. Túi thừa hình thành do sự thoát vị của niêm mạc và dưới niêm mạc qua những lớp cơ của thực quản.
Ung thư
nhỏ|200x200px|Hình ảnh nội soi của [[Ung thư thực quản|ung thư biểu mô tuyến thực quản]] Ung thư thực quản có hai loại. Ung thư biểu mô tế bào vảy là một loại ung thư biểu mô có thể xảy ra trong các tế bào vảy lót trong thực quản. Loại này phổ biến hơn nhiều ở Trung Quốc và Iran. Loại còn lại là ung thư biểu mô tuyến xảy ra trong các tuyến hoặc mô cột của thực quản. Điều này phổ biến nhất ở các nước phát triển ở những người bị Barrett thực quản, và xảy ra ở các tế bào hình khối. Các mạch máu này bị ứ đọng nhiều hơn bình thường, và trong trường hợp xấu nhất có thể gây tắc nghẽn một phần thực quản. Các mạch máu này phát triển như một phần của tuần hoàn bàng hệ nhằm dẫn lưu máu máu từ ổ bụng do tăng áp lực tĩnh mạch cửa, thường là kết quả của các bệnh gan như xơ gan. Xơ cứng thực quản thường gặp trong bệnh cảnh xơ cứng toàn thân hoặc trong hội chứng CREST có thể gây cứng thành thực quản và cản trở nhu động ruột. Cả hai bệnh này thường tồn tại cùng nhau, Một nửa số trường hợp mắc bất thường bẩm sinh này có thể tồn tại trong bệnh cảnh mắc hội chứng bất thường khác đặc biệt là tim hoặc tay chân.
Chẩn đoán hình ảnh
nhỏ|Một khối quan sát được trong [[nội soi và siêu âm.|371x371px]] Chụp X-quang nuốt bari giúp phát hiện kích thước và hình dạng của thực quản, và tìm khối bất thường trong thực quản. Có thể chụp thực quản bằng cách sử dụng camera linh hoạt đưa vào thực quản, gọi là phương pháp nội soi. Nếu nội soi được sử dụng trên dạ dày, máy ảnh cũng sẽ phải đi qua thực quản. Trong quá trình nội soi, kỹ thuật viên có thể sinh thiết. Nếu bệnh nhân đang theo dõi ung thư thực quản, có thể chỉ định các phương pháp khác (như chụp cắt lớp vi tính). Việc sử dụng từ "oesophagus" được ghi lại trong tài liệu giải phẫu học thời Hippocrates. Ông viết: "thực quản ... nhận được những gì chúng ta ăn uống với lượng lớn nhất." Sự tồn tại của thực quản ở các loài động vật khác và mối liên quan của cấu trúc giải phẫu này với dạ dày được nhà tự nhiên học người La Mã Pliny the Elder ghi lại (23 SCN - 79 SCN), Galenus ghi nhận các cơn co thắt nhu động của thực quản.
Năm 1871, Theodore Billroth thực hiện phẫu thuật thực quản trên chó. Năm 1877 Czerny tiến hành phẫu thuật thực quản người. Đến năm 1908, Voeckler thực hiện ca cắt bỏ thực quản, và vào năm 1933, ca phẫu thuật đầu tiên cắt bỏ các phần của thực quản dưới để kiểm soát ung thư thực quản được tiến hành.
Phẫu thuật bao đáy vị Nissen (Nissen fundoplication – "fundus" = "đáy vị"; "plication" = "bao lại", "cuộn lại") là một phẫu thuật dùng để điều trị bệnh trào ngược dạ dày thực quản và thoát vị khe thực quản gián đoạn. Đây là một thủ thuật xâm lấn được thực hiện để khôi phục lại chức năng của các cơ vòng thực quản dưới (van giữa thực quản và dạ dày) bằng cách quấn xung quanh dạ dày thực quản. Thủ thuật này tạo ra một "van chức năng" mới giữa thực quản và dạ dày và ngăn ngừa trào ngược acid từ dạ dày vào thực quản. Phương pháp này lần đầu tiên được Rudolph Nissen tiến hành vào năm 1955. Ở động vật nhai lại (dạ dày có 4 ngăn), tồn tại một rãnh gọi là rãnh lưới (sulcus reticuli) trong thực quản. Ở ngựa, thực quản dài mang thức ăn đến dạ dày. Cơ thắt tâm vị là vòng cơ nối dạ dày với thực quản. Cơ vòng này rất phát triển ở ngựa. Nhờ có cơ thắt tâm vị và góc hợp bởi thực quản và dạ dày giải thích tại sao ngựa không bao giờ nôn. Ngựa có thể sặc nếu thức ăn mắc kẹt ở thực quản.
Thực quản của rắn giãn rất rộng khi rắn nuốt con mồi.
Ở hầu hết các loài cá, thực quản cực kỳ ngắn, chủ yếu là do độ dài của hầu (liên kết với mang). Tuy nhiên, một số loài cá (chẳng hạn như cá mút đá, cá Chimaeriforme và cá phổi) không có dạ dày thực sự. Thực quản của những loài này nối hầu trực tiếp tới ruột do đó dài hơn một chút. kích cỡ cơ thể người trưởng thành không thể đi qua thực quản của cá voi. Thực quản cá voi thường có đường kính dưới , ở những con cá voi tấm sừng hàm lớn, thực quản khi giãn có thể lên đến .
Động vật không xương sống
Một cấu trúc có cùng tên thường thấy ở động vật không xương sống (động vật thân mềm và động vật chân đốt) nối khoang miệng với dạ dày. Về hệ tiêu hóa của ốc và sên, thức ăn từ miệng vào thực quản và đi xuống dạ dày. Do cấu trúc xoắn ốc tạo chuyển động quay của cơ thể chính của động vật trong quá trình phát triển của ấu trùng, thực quản thường đi qua dạ dày sau đó nối vào dạ dày ở vị trí xa miệng nhất. Tuy nhiên, ở những loài không còn cấu trúc xoắn ốc, thực quản thông vào phía trước của dạ dày, điều này ngược lại với sự sắp xếp của động vật chân bụng thông thường. Ở phía trước của thực quản trong tất cả các ốc ăn thịt và sên tồn tại một cấu trúc giải phẫu gọi là mỏ. Ở loài ốc nước ngọt Tarebia granifera, túi ấp nằm phía trên thực quản.
Ở động vật chân đầu, não bao quanh thực quản.
]] **Trung Hoa Dân Quốc (THDQ)**, thường được gọi là **Đài Loan**, hiện tại có quan hệ ngoại