Trung liên Kiểu 96 (九六式軽機関銃 Kyūroku-shiki Kei-kikanjū) là một loại trung liên được Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng từ trước và trong Thế chiến thứ hai. Súng được đánh giá là bền, tin cậy và nó đặc biệt phù hợp với thể trạng chiến đấu của lính bộ binh Nhật Bản.
Lịch sử phát triển
Những kinh nghiệm chiến đấu trong sự kiện Phụng Thiên năm 1931 và chiến sự tại Mãn Châu và miền Bắc Trung Quốc đã lần nữa khẳng định lục quân Đế quốc Nhật Bản cần một kiểu súng máy mới để tạo ra màn hỏa lực yểm trợ cho bộ binh tiến lên. Loại súng máy kiểu cũ, trung liên Kiểu 11 có trọng lượng nhẹ, dễ vận chuyển và đưa vào chiến đấu. Tuy nhiên, thiết kế của kiểu súng này khiến cho cát và bụi bẩn dễ bám vào súng khiến nó thường xuyên bị tắc đạn ở những nơi có nhiều bùn đất, và cũng bởi do dung sai kích thước kém. Điều này khiến cho lính Nhật không hài lòng và họ đòi hỏi một mẫu thiết kế khác.
Xưởng sản xuất vũ khí Kokura đã cho thử nghiệm kiểu súng máy của Cộng hòa Séc ZB vz. 26, tịch thu từ Quân đội Cách mạng Quốc dân. Sau cùng, dựa vào một số chi tiết của kiểu súng này, một kiểu súng máy mới đã ra đời năm 1936 là trung liên Kiểu 96 (kiểu trung liên này đã lấy Kỷ nguyên Thiên Hoàng năm thứ 2596 để làm tên).
Thiết kế
nhỏ|Quân đội Đế quốc Nhật Bản xâm chiếm Hà Nam trong Chiến dịch Ichigo năm 1944.
Trung liên Kiểu 96 sở hữu thiết kế chịu ảnh hưởng khá lớn từ mẫu súng ZB vz. 26 của Tiệp Khắc như cơ chế hoạt động là nạp đạn bằng khí nén, khóa nòng súng sử dụng là khóa nòng chèn nghiêng, hộp tiếp đạn gắn ở phía trên của khẩu súng,... Súng sử dụng loại đạn 6.5x50mm của súng trường Shiki 38.
Về ưu điểm, súng sử dụng cơ chế nạp đạn bằng 1 băng đạn được gắn phía trên súng, chứa 30 viên, vừa làm tăng độ chính xác và vừa làm giảm trọng lượng khẩu súng tuy không đáng kể. Nòng súng có xẻ rãnh để tránh tình trạng súng bị nóng quá mức và có thể dễ dàng tháo ra để thay thế hoặc bảo dưỡng. Đỉnh đầu ruồi và khe ngắm giúp súng có phạm vi ngắm từ 200 đến 1.500 m, với một điều chỉnh gió. Một kính ngắm 2.5X với tầm nhìn 10 độ có thể được gắn phía bên phải súng.
Trung liên Kiểu 96 còn có một giá 2 chân có thể gấp lại được, gắn với cụm hơi và báng súng bằng gỗ. Khi cần thiết, có thể gắn một lưỡi lê ở cụm hơi, ngay phía dưới nòng súng. Súng được thiết kế để có thể bắn liên thanh, nhưng vẫn có thể bắn từng viên một qua việc kéo chậm cò súng.
Về khuyết điểm, nhà thiết kế Kijiro Nambu đã không làm gì để giải quyết dung sai kích thước giữa khóa nòng và nòng súng, dẫn đến hiện tượng kẹt đạn trong ổ đạn. Để tăng độ tin cậy cho súng (trên lý thuyết), ông Nambu đã cho bôi một lớp dầu trơn lên mỗi băng đạn của súng thông qua một máy bơm dầu trên hộp tải đạn. Tuy nhiên, trong tập luyện, chính lớp dầu này lại càng làm cho vấn đề trở nên xấu hơn khi nó khiến cho cát và đất bám vào viên đạn và hậu quả hiển nhiên của việc này là súng sẽ bị kẹt. Khuyết điểm này chỉ được giải quyết với sự ra đời của khẩu Shiki 99 cũng là của nhà thiết kế Kijiro Nambu.
Lịch sử hoạt động
Trung liên Kiểu 96 đưa vào chiến đấu từ năm 1936 với ý định thay thế hoàn toàn cho Kiểu 11 cũ; tuy nhiên Kiểu 11 đã được sản xuất với một số lượng lớn nên cả hai kiểu súng máy đều được sử dụng cùng lúc cho đến hết chiến tranh. Kiểu 96 được đánh giá là có tốc độ bắn nhanh và tin cậy, nhưng đạn 6.5 mm còn yếu về uy lực, nên người Nhật đã quyết định phát triển thêm một loại súng có hỏa lực mạnh hơn bằng sự ra đời Shiki 99 sử dụng đạn 7.7 mm vào năm 1939.
Trung liên Kiểu 96 được Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong chiến tranh Trung-Nhật và Thế chiến thứ hai. Sau khi thế chiến kết thúc, kiểu trung liên này tiếp tục được Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và sử dụng trong Nội chiến Trung Quốc và sau này là Chiến tranh Triều Tiên. Ngoài ra, năm 1945, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tịch thu một số lượng khá là nhiều trung liên này từ các đơn vị Nhật đồn trú ở Đông Dương. Bên cạnh đó, khá nhiều lính và sĩ quan Nhật tại Đông Dương đã mang khẩu súng này cùng với các loại súng khác tặng lại cho Việt Minh và để lại cho Việt Minh có thêm vũ khí chống Pháp. Họ là "Những người Việt Nam mới"
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trung liên Kiểu 96** (九六式軽機関銃 Kyūroku-shiki Kei-kikanjū) là một loại trung liên được Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng từ trước và trong Thế chiến thứ hai. Súng được đánh giá là bền,
**Shiki 11** (十一年式軽機関銃, Jyūichinen-shiki Kei-kikanjū) là súng máy hạng nhẹ được quân đội Hoàng gia Nhật Bản sử dụng trong các cuộc chiến trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến lớn và suốt chiến tranh
**Shiki 99** (九九式軽機関銃, きゅうきゅうしきけいきかんじゅう, Kyūkyū-shiki Kei-kikanjū) là loại súng máy hạng nhẹ được quân đội hoàng gia Nhật Bản sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai. ## Lịch sử và phát triển nhỏ|Thượng
**Shiki 92** (九二式重機関銃, きゅうにしきじゅうきかんじゅう, Kyūnishiki jūkikanjū) là loại súng máy hạng nặng tiêu chuẩn của Lục quân Đế quốc Nhật Bản được đưa vào phục vụ năm 1932 và được quân đội Nhật và Mãn
**LMG Shiki 97** (九七式車載重機関銃, Kyūnana-shiki Shasai-jūkikanjū) là một trong những loại súng máy tiêu chuẩn sử dụng trên các xe tăng hoặc xe thiết giáp của Lục quân Đế quốc Nhật Bản trong chiến tranh
Súng máy [[PK (súng máy)|PK của Lục quân Iraq|thế=]] **Súng máy**, còn gọi là **súng liên thanh**, là một loại súng có thể bắn hoàn toàn tự động, có khả năng bắn thành các loạt
**Xe bọc thép hạng nặng Type 92** (九二式重装甲車 Kyū-ni-shiki Jyū-sōkōsha) hay **Type 92 cavalry tank** là xe tăng siêu nhẹ đầu tiên của Đế quốc Nhật Bản. ## Đặc điểm Tập tin:Type_92_heavy_armoured_car_01.jpg|nhỏ|250x250px|Xe tăng siêu
**Danh sách các loại súng** là danh sách các loại súng trên các nước và không bao giờ có thể đầy đủ vì khoa học vũ khí luôn sản xuất nhiều loại súng khác nhau
là một loại súng phóng lựu tự động của Nhật Bản do công ty Howa phát triển và sản xuất cho Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (JSDF). Với nhu cầu về một loại vũ
là một kiểu xe tăng siêu nhẹ được Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong Thế chiến thứ hai, đặc biệt là tại chiến trường Trung Quốc và Chiến dịch Khalkhyn Gol. Kiểu
**Xe tăng hạng trung kiểu 59** (tiếng Anh: **Type 59**, tên công nghiệp tại Trung Quốc: **WZ120**) hay **Xe tăng chủ lực kiểu 59** là một xe tăng chiến đấu chủ lực do Trung Quốc
**Nội chiến Trung Quốc** hay **Quốc Cộng nội chiến** (), kéo dài từ tháng 4 năm 1927 đến tháng 5 năm 1950, là một cuộc nội chiến tại Trung Quốc đại lục (với chính quyền
Khẩu ****'' là một khẩu pháo tự động được sử dụng bởi Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ II. Là biến thể nội địa của khẩu súng phòng không
Đạn **7.62×25mm Tokarev** (được gọi là 7.62 × 25 Tokarev bởi C.I.P) là một loại đạn súng ngắn không rãnh của Nga được sử dụng rộng rãi tại Liên Xô trước đây, Trung Quốc, Pakistan
**Mikoyan-Gurevich MiG-21** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-21) (tên ký hiệu của NATO: **Fishbed** - **Cá hóa thạch**) là một máy bay tiêm kích phản lực, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan, Liên
**T-62** là thế hệ xe tăng hạng trung kế tiếp và phiên bản cải tiến của xe tăng T-54/55 do Liên Xô nghiên cứu thiết kế, được đưa vào sản xuất hàng loạt năm 1961
**M1 Abrams** là xe tăng chiến đấu chủ lực thế hệ thứ ba của Hoa Kỳ, được thiết kế bởi Chrysler Defense (nay là General Dynamics Land Systems), tên xe được đặt theo tên tướng
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**Mauser C96** (_Construktion 96_) là một loại súng ngắn bán tự động được sản xuất bởi nhà máy vũ khí Mauser từ năm 1896 đến năm 1937. Những phiên bản không giấy phép cũng được
:_Bài này viết về một loại vũ khí, với những nghĩa khác xem tại Bazooka (định hướng)_ **Bazooka** tên gọi chung của một loại súng chống tăng không giật với các đặc điểm: Thân dài,
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**T-90** là xe tăng chiến đấu chủ lực thế hệ thứ ba của Nga được phát triển để thay thế xe tăng T-72. Nó được sản xuất với số lượng ít vào năm 1993 và
**Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản** (tiếng Anh: _Japan Ground Self-Defense Force_, , Hán-Việt: _Lục thượng tự vệ đội_), thường được gọi tắt là **JGSDF** (, Hán-Việt: _Lục tự_), là lực lượng lục
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
**Dòng máy bay Airbus A320** vận tải hành khách thương mại tầm ngắn đến tầm trung do hãng Airbus S.A.S. chế tạo. Các phiên bản của dòng máy bay này gồm có **A318**, **A319**, **A320**,
**_Atago_** (tiếng Nhật: 愛宕) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Takao_ bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp _Myōkō_ trước
phải|nhỏ|230x230px| Nhiều góc độ và chi tiết khác nhau của "MaxScan OE509" - một máy quét cầm tay chẩn đoán tích hợp (OBD) khá điển hình từ thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21.
**Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản**, tên chính thức trong tiếng Nhật là , là lực lượng vũ trang của Nhật Bản, được thành lập căn cứ Luật Lực lượng phòng vệ năm 1954. Lực